Giao hữu bóng đá quốc tế với chuyên gia từ Anh quốc

Chiều 25/05/2018, tại sân vận động trường Đại học Sư Phạm Hà Nội đã diễn ra trận giao hữu bóng đã quốc tế giữa FIMO, SIS Lab và các chuyên gia từ các trường Đại học Anh quốc. Trận giao hữu đã quy tụ được đông đảo các cầu thủ và cổ động viên của cả 3 đơn vị.

Không khí trận đấu đã diễn ra sôi nổi ngay từ khi trận đấu chưa được bắt đầu. Ba đội được tổ chức bao gồm hai đội liên quân của FIMO với Anh quốc và SIS Lab. Trận đấu được tổ chức theo thể thức thi đấu vòng tròn, thua ra được vào với mỗi trận đấu nhỏ kéo dài 10 phút.

Một số hình ảnh của trận đấu:

Phỏng vấn trước trận đấu

Phỏng vấn trước trận đấu

Chuẩn bị trước trận đấu

Một pha bóng gay cấn trước khu thành liên quân FIMO-Anh quốc

SIS Lab, như thường lệ vẫn chứng tỏ họ là đội bóng có lối chơi khó chịu. Tuy nhiên, với sự bổ sung ngoại binh chất lượng, liên quân FIMO-Anh quốc đã có thể thi đấu ngang ngửa với SIS Lab và đã có 2 lần hạ gục đối thủ.

Ăn mừng sau khi ghi bàn thắng

Không thể thiếu đó là những màn cổ vũ sôi nổi của hội cổ động viên bên ngoài sân đấu. Các đội đã cống hiến cho khán giả nhiều pha bóng hấp dẫn và những cơn mưa bàn thắng.

 

Hội cổ động viên tiếp lửa cho các cầu thủ

Kết thúc trận đấu

Liên hoan sau trận đấu 

TCarta cung cấp dữ liệu ảnh vệ tinh về về độ sâu của biển cho dự án thăm dò hydrocacbon

TCarta, một nhà cung cấp toàn cầu các sản phẩm không gian địa lý biển, đã cung cấp độ sâu biển có nguồn gốc từ vệ tinh (SDB) cho Total SA, một trong những nhà sản xuất dầu và khí đốt lớn nhất thế giới. Total SA sẽ sử dụng dữ liệu độ sâu nước để chuẩn bị cho cuộc khảo sát địa chấn hoạt động ngoài khơi bờ biển Myanmar.

“Đội ngũ xử lý của chúng tôi cung cấp độ sâu biển có nguồn gốc từ vệ tinh chỉ sau vài tuần sau khi Total đặt hàng,” CEO David Critchley của TCarta nói. “Việc lập bản đồ độ sâu trong không khí hoặc tàu thủy truyền thống sẽ mất vài tháng và tốn gấp mười lần”.

TCarta đã tạo ra tập dữ liệu SDB bằng cách trích xuất số đo độ sâu chính xác của nước từ hình ảnh đa chiều thu được từ vệ tinh Sentinel-2 của Cơ quan Vũ trụ châu Âu. Dữ liệu độ sâu có khoảng cách khoảng 10 mét với các phép đo đến độ sâu 15 mét. Việc phân phối bao phủ một diện tích 30 km vuông xung quanh đảo Preparis ở Vịnh Bengal.

Total hợp đồng với TCarta cho dự án Đảo Preparis sau một nghiên cứu điểm chuẩn cũng tạo ra dữ liệu độ sâu chất lượng cao từ hình ảnh Sentinel-2.

Các sản phẩm SDB do TCarta tạo ra đã trở nên rất phổ biến trong các công ty sản xuất và thăm dò năng lượng, cũng như các tổ chức môi trường và các công ty phát triển cơ sở hạ tầng, do hiệu quả chi phí và sự quay vòng nhanh chóng. Ngoài ra, bộ sưu tập hình ảnh từ xa bằng vệ tinh không gây rủi ro cho nhân sự hoặc môi trường. Và dữ liệu độ sâu có thể được chụp ở tất cả các nơi trên thế giới, ngay cả khi hạn chế an ninh giới hạn hoạt động của máy bay hoặc tàu.

“Các công ty năng lượng toàn cầu đang trở thành một trong những thị trường lớn nhất của TCarta SDB và các sản phẩm không gian địa lý biển khác,” Critchley nói.

Một sản phẩm TCarta khác được sử dụng rộng rãi trong khai thác và sản xuất hydrocacbon ngoài khơi là gói Global Bathymetry GIS toàn cầu. Tập dữ liệu GIS sẵn sàng này cung cấp một mức độ thông tin hàng hải cao hơn dữ liệu miền công cộng cho các khu vực trên toàn thế giới. Các sản phẩm 90 và 30 mét đều chứa một Mô hình độ sâu kỹ thuật số với các giá trị độ sâu tại chỗ, đường đồng mức và bờ biển có độ phân giải cao được lấy từ nhiều nguồn dữ liệu. Chúng bao gồm các biểu đồ hải lý, dữ liệu khảo sát đơn và đa đường, LiDAR, SDB, dữ liệu đo đạc và khảo sát địa chấn có nguồn gốc sâu.

TCarta đã làm cho sản phẩm của mình thuận tiện cho khách hàng để sử dụng. Vào năm 2017, công ty Anh đã ra mắt cổng thông tin trực tuyến Bathymetrics của mình. Trang web trực tuyến này cho phép khách hàng tìm kiếm tính khả dụng của các sản phẩm TCarta có sẵn, bao gồm cả bộ lọc Bath Deretry và các bộ dữ liệu độ sâu 90 mét. Khách hàng có thể tìm kiếm dữ liệu, đặt hàng và tải xuống ngay lập tức các sản phẩm đã mua.

Máy bay không người lái có thể phải được trang bị ‘biển số xe’

Một đàn máy bay không người lái bay dưới hoàng hôn

Hiện nay, khi bạn đăng ký một máy bay không người lái (UAV) với FAA (Federal Aviation Administration – U.S. Department of Transportation), bạn sẽ nhận được một số ID do chính phủ cấp và có thể được viết bên trong ngăn chứa pin hoặc bất kỳ bộ phận bên trong của UAV. Tuy nhiên, trong tương lai, bạn có thể phải đảm bảo rằng số ID đó là hoàn toàn có thể nhìn thấy – giống như một tấm giấy phép nhỏ cho UAV của bạn. Bloomberg đã phát hiện ra một đề xuất được đệ trình vào đầu tháng này rằng sẽ yêu cầu chủ sở hữu UAV phải hiển thị số ID được FAA cấp trên bề mặt bên ngoài của UAV và không còn được phép giữ số ID đó ẩn bên trong nữa.

Số ID có thể nhìn thấy sẽ cho phép các nhà quản lý để giám sát tốt hơn UAV cá nhân. Các nhà chức trách từ lâu đã cố gắng giành quyền kiểm soát lớn với các phương tiện bay, vì họ đã gặp phải vài vụ tai nạn máy bay trong quá khứ và do lo ngại ngày càng tăng về việc sử dụng UAV cho mục đích khủng bố. Cuối năm ngoái, chính phủ Mỹ yêu cầu những người sở hữu máy bay không người lái từ 0,5 đến 55 pound phải đăng ký thiết bị của họ với FAA. Liên Hiệp Quốc thậm chí còn có kế hoạch hỗ trợ đăng ký bay không người lái trên toàn thế giới. Chỉ một vài tháng trước, Nhà Trắng đã đưa ra khả năng cho phép nhân viên thực thi pháp luật theo dõi và bắn hạ các UAV dân dụng. Rất tiếc, đề xuất này rất ngắn và không bao gồm chi tiết về hậu cần và thông tin khác.

Nguồn: Regulators want drones to have visible ‘license plates’

Bộ cảm biến không dây giám sát áp suất và nhiệt độ toàn thân cho các bệnh nhân bị liệt

Một nhóm các nhà nghiên cứu từ Mỹ, Trung Quốc và Hàn Quốc đã phát triển một thiết bị nhỏ, có thể gắn trực tiếp lên da các người bệnh nhân bị liệt để thu thập thông tin về nhiệt độ và áp suất, dữ liệu được gửi không dây cho nhân viên y tế. Trong bài báo đăng trên tạp chí Science Translational Medicine, nhóm mô tả cảm biến, nó hoạt động như thế nào và nó hoạt động tốt như thế nào khi so sánh với các cảm biến thông thường.

Lấy nhiệt độ của các bệnh nhân là một cách nhanh chóng để kiểm tra cho sự khởi đầu của một bệnh nhiễm trùng. Ngoài ra, kiểm tra áp lực của những bệnh nhân nằm liệt giường trong thời gian dài có thể cảnh báo quá trình chăm sóc để ngăn chặn hoại tử. Trong khi mọi người đều biết làm thế nào để có nhiệt độ, quá trình kiểm tra áp suất thì ít phổ biến hơn. Thông thường, nó bao gồm việc chèn một thăm dò hậu môn khó chịu. Phương pháp cho cả hai loại xét nghiệm cũng  chỉ cung cấp thông tin về một phần của cơ thể. Trong nghiên cứu mới này, các nhà nghiên cứu đã phát triển một bộ cảm biến có thể cung cấp liên tục thông tin nhiệt độ và áp lực từ nhiều bộ phận khác nhau trên cơ thể. Những cảm biến này thậm chí không cần cấp năng lượng từ pin.

Thiết bị của nhóm phát triển được gắn lên nhiều vùng khác nhau của cơ thể bệnh nhân (trung bình 65 thiết bị, tùy thuộc vào kích thước của bệnh nhân). Mỗi thiết bị thu thập thông tin và gửi dữ liệu cho một cuộn dây NFC truyền dưới giường của bệnh nhân. Thiết bị cuộn dây cũng phục vụ như là phương tiện cấp năng lương cho các thiết bị cảm ứng. Thiết bị này chỉ có kích thước bằng một đồng xu, có một cảm biến áp suất, cảm biến nhiệt độ và hệ thống NFC. Các thiết bị dưới giường cũng phục vụ như một relay, gửi dữ liệu nó nhận được một máy tính mà theo dõi các dữ liệu và gửi thông báo cho người lao động chăm sóc sức khỏe. Các cảm biến được thiết kế mỏng và linh hoạt, phù hợp thoải mái và dễ dàng gắn lên da.

Nhóm nghiên cứu đã thử nghiệm hệ thống so sánh với phương pháp truyền thống và cho thấy chúng có hiệu quả tương đương. Một thử nghiệm lâm sàng lớn hơn được lên kế hoạch, trong khi đó các nhà nghiên cứu đang xem xét để thêm các khả năng khác cho các cảm biến, như theo dõi tim và nhịp thở.

Bạn có thể tìm thấy bản đầy đủ của bài báo này tại đây.

Nguồn: Battery-free wireless sensors collect temperature and pressure of bedridden patients

Khai mạc Hội thảo “Xây dựng hệ thống quan trắc để ứng phó với đa tai biến trên lưu vực sông Hồng”

Sáng 22/05, Trường Đại học Công nghệ (ĐHCN), Đại học Quốc gia Hà Nội đã tổ chức phiên khai mạc của Hội thảo “Xây dựng hệ thống quan trắc để ứng phó với đa tai biến trên lưu vực sông Hồng” tại nhà G3 với sự tham gia của các diễn giả trong nước và quốc tế.

Khai mạc của Hội thảo “Xây dựng hệ thống quan trắc để ứng phó với đa tai biến trên lưu vực sông Hồng”

     Tham gia phiên khai mạc hội thảo có ông Vũ Xuân Thành – Phó Tổng Cục trưởng Tổng cục Phòng chống thiên tai, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; ông Hoàng Anh Tuấn – Phó Vụ trưởng Vụ Nguồn nước và Nước sạch nông thôn, Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn; TS. Micheal Ellis  – Cục Khảo sát địa chất Vương quốc Anh, bà Hoàng Vân Anh – Phó Giám đốc Hội đồng Anh tại Việt Nam; GS. TS Mai Trọng Nhuận – Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Ủy ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu; Ông Nguyễn Huy Dũng – Chuyên gia cao cấp về Quản lý rủi ro thiên tai của Ngân hàng Thế giới. Về phía Trường ĐHCN có PGS.TS. Phạm Bảo Sơn – Phó Hiệu trưởng; PGS.TS. Trần Xuân Tú – Trưởng phòng KHCN&HTPT.

Phó Hiệu trưởng Phạm Bảo Sơn phát biểu khai mạc

      Phát biểu khai mạc, PGS. TS. Phạm Bảo Sơn chia sẻ trong những năm gần đây, Trường ĐHCN đang trên lộ trình đưa công nghệ ứng dụng vào nhiều lĩnh vực trong cuộc sống bằng cách mở thêm các khoa, Viện, bộ môn , chương trình mang tính liên ngành như Viện Công nghệ Hàng không vụ trụ,Khoa Nông nghiệp Công nghệ cao, Bộ môn Công nghệ Xây dựng – Giao thông, Chương trình Thạc sĩ Chuyển hóa Năng lượng, Viện Tiên tiến về kỹ thuật và công nghệ…Trong bối cảnh xã hội hiện đại, việc giải quyết các vấn đề kinh tế xã hội cần phải có tư duy và cách giải quyết vấn đề một cách đa ngành, liên ngành. Chính vì lý do đó mà hội thảo có sự góp mặt của nhiều nhà khoa học đền từ nhiều lĩnh vực khác nhau như địa chất, môi trường, khí tượng thủy văn, biến đổi khí hậu, phòng chống thiên tai, xã hội học, kinh tế học, công nghệ thông tin truyền thông, để cùng thảo luận và xây dựng kế hoạch Xây dựng hệ thống quan trắc để ứng phó với đa thiên tai – nhân tai trên lưu vực sông Hồng. Hơn nữa hội thảo cũng nhận được sự quan tâm và ủng hộ của các cơ quan quản lý nhà nước như Tổng cục Phòng chống thiên tai, Tổng cục Thủy lợi, Ủy ban Quốc gia về Biến đổi khí hậu, Đại sự quán Anh tại Việt Nam; nhận được sự quan tâm của các nhà tài trợ như Ngân hàng Thế giới, Hội đồng Anh tại Việt Nam, Quỹ Newton.

Ông Vũ Xuân Thành chia sẻ về tình hình phòng chống thiên tai tại Việt Nam

     Trong bài phát biểu với tư cách là nhà đồng tổ chức hội thảo, ông Vũ Xuân Thành cho biết, Việt Nam là một trong 5 đất nước được các nhà nghiên cứu đánh giá tiêu cực về biến đổi khí hậu. Hiện nay, Việt Nam đang chịu tác động của 21 các loại thiên tai do biến đổi khí hậu tạo ra. Do vậy, công cuộc phòng chống và khắc phục hâu quả thiên tai của người dân nói riêng và nhà nước nói chung được đẩy mạnh. Một trong những nội dung được Đảng và Chính phủ quan tâm là công tác đánh giá, nhận biết thiên tai để có cảnh báo sớm trước thiên tai và có công tác khắc phục, phòng chống, giảm thiểu thiệt hai của thiên tai. Ông Vũ Xuân Thành bày tỏ mong muốn thông qua hội thảo này các chuyên gia, nhà khoa học quốc tế sẽ chia sẻ kinh nghiệm để Việt Nam tiếp thu được những kỹ thuật tiên tiến hiện đại trong công tác cảnh báo, phòng chống thiên tai. Ông Thành cũng chia sẻ “Hội thảo khai mạc ngày 22/5 cũng đúng là ngày kỷ niệm 72 năm ngày truyền thống phòng chống thiên tai của Việt Nam nên có ý nghĩa quan trọng góp phần cùng UBND các cấp, các ngành có liên quan cổ vũ nhân dân, các cấp và các ngành có liên quan chuẩn bị mọi mặt công tác với quyết tâm cao bảo vệ tốt tính mạng và tài sản của nhân dân Việt Nam. Tôi tin tưởng chắc chắn rằng với tầm nhìn và quyết tâm cao của tất cả chúng ta, kết quả của dự án trong tương lai sẽ rất hữu ích góp phần vào sự nghiệp giảm thiểu rủi ro thiên tai tại Việt Nam, đặc biệt tạo các cơ hội mới cho các đơn vị nghiên cứu thuộc trường Đại học Công nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội và Tổng cục Phòng chống thiên tai trong việc đề xuất dự án xin nguồn hỗ trợ của Quỹ Thách thức quốc tế”.

Lưu vực sông Hồng cung cấp nguồn cung cấp lương thực, năng lượng, nước và các nguồn lực kinh tế – xã hội quan trọng cho khoảng 30 triệu người dân tại khu vực phía Bắc. Do đó, các nguy cơ tiềm ẩn về dân số cũng như sinh kế trong lưu vực là một vấn đề cần được quan tâm trong bối cảnh biến đổi khí hậu, mực nước biển dâng cao cũng như các thay đổi về quản lý và quy hoạch đất đai. Các mối liên hệ giữa các thảm họa thiên nhiên cũng như tác động của chúng đến người dân cho thấy khả năng xảy ra các đa tai biến trên lưu vực. Bằng việc phát triển sự hiểu biết toàn diện, liên ngành về lưu vực, mục tiêu của hội thảo là tăng trưởng kinh tế bền vững trên khu vực RRHD thông qua việc cung cấp các giải pháp chống chịu và phục hồi sau các thảm họa thiên nhiên. Để làm được điều đó, cần thiết phải có một sự phối hợp liên ngành giữa các nhà khoa học tự nhiên và xã hội và các cơ quan chức năng cũng như người dân trong lưu vực. Hệ thống giám sát môi trường mới là sự kết hợp của cơ sở hạ tầng cứng (khả năng thu thập dữ liệu và giám sát thông qua cảm biến phân tán và độc lập) và cơ sở hạ tầng mềm (khoa học công dân, các mô hình tiên đoán, việc phân tích hành vi của con người).

Toàn thể đại biểu chụp ảnh lưu niệm

      Hội thảo được tài trợ bởi chương trình Researcher Links, Quỹ Newton Fund, Hội đồng Anh với sự tham gia của 20 nhà khoa học Vương Quốc Anh đến từ Cục khảo sát địa chất Hoàng gia Anh, Đại học London, ĐH Liverpool, ĐH Hull, ĐH Dundee, ĐH Loughborough, ĐH Birmingham, ĐH Bournemouth, ĐH Southampton) và 20 nhà khoa học Việt Nam đến từ Trường Đại học Công nghệ ĐHQGHN, Trường Đại học Kinh tế ĐHQGHN, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHQGHN, Trường Đại học Khoa học Xã hội Nhân văn ĐHQGHN, Tổng cục PCTT – Bộ TNMT, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên ĐHQGHCM, Viện Khoa học Thủy lợi Việt Nam, Viện Địa chất khoáng sản Việt Nam, Trường ĐH Mỏ Địa chất Hà Nội, Trường Đại học Tài nguyên Môi trường Hà Nội, Viện Khoa học Khí tượng Thủy văn và Biến đổi Khí hậu, Trường ĐH Y tế Công cộng, Trung tâm dự báo khí tượng văn Trung ương.

Các chủ đề thảo luận của hội thảo về các mối liên hệ giữa các thảm họa thiên nhiên và khả năng xảy ra các đa tai biến trong khu vực; sự cần thiết của các hệ thống phản ứng linh động với sự tham gia của nhiều nhóm ngành nhằm đối phó với các thảm họa thiên nhiên; các hoạt động cũng như mô hình kinh tế – xã hội của người dân trong bối cảnh các mối nguy hiểm có thể xảy ra; nhu cầu dữ liệu: địa không gian, kinh tế xã hội cũng như tập quán.Kết thúc hội thảo sẽ đưa ra chiến lược và lộ trình cho việc phát triển các kỹ năng nghiên cứu cũng như xây dựng cộng đồng nghiên cứu ở cả hai quốc gia cho việc giám sát lưu vực sông Hồng.Hội thảo sẽ kết thúc vào ngày 25/05/2018.

Tuyết Nga (UET-News)

NOAA phát hiện ra sự gia tăng phát thải của hóa chất phá hủy tầng ôzôn đã bị cấm trong hiệp định Montreal Protocol

Một nghiên cứu mới của NOAA cho thấy: sự phát thải của hóa chất gây ra các lỗ thủng tầng ôzôn ở Nam Cực đang gia tăng, mặc dù một hiệp ước quốc tế đã yêu cầu chấm dứt sản xuất trong năm 2010.

Trichlorofluoromethane, hoặc CFC-11, là loại khí gây suy thoái ôzôn đứng thứ hai trong bầu khí quyển , góp phần gây ra lỗ hổng khổng lồ trong tầng ôzôn Nam Cực vào mỗi tháng 9. Việc sản xuất CFC-11 đã bị hạn chế bởi hiệp định Montreal Protocol vào năm 2010, trước đó CFC-11 được sử dụng rộng rãi làm chất tạo bọt. Nghiên cứu mới này được công bố trên tạp chí Nature, ghi nhận sự gia tăng bất ngờ về lượng khí thải CFC-11, có khả năng từ các hoạt động sản xuất mới, không được báo cáo.
“Chúng tôi gửi báo động đến cộng đồng trên toàn thế giới: ‘Đây là những gì đang diễn ra, sự suy giảm tầng ôzôn sẽ diễn ra nhanh hơn quá trình tự phục hồi lại’”, phát biểu bởi Stephen Montzka, nhà khoa học NOAA, tác giả chính của bài báo, có đồng tác giả từ CIRES, Vương quốc Anh và Hà Lan. “Cần tìm ra chính xác lý do tại sao lượng phát thải CFC-11 đang gia tăng và điều gì sớm có thể làm được về nó”.

CFCs đã từng được sử dụng rộng rãi trong sản xuất bình xịt thuốc (tác nhân tạo bọt), vật liệu đóng gói (như dung môi), và các chất làm lạnh. Mặc dù việc sản xuất CFC đã bị hạn chế bởi hiệp định Montreal, một lượng lớn CFC-11 ngày nay vẫn tồn tại, chủ yếu ở trong lớp cách nhiệt xốp trong các tòa nhà và các thiết bị được sản xuất từ trước giữa những năm 1990. Một lượng nhỏ CFC-11 cũng tồn tại trong các thiết bị làm lạnh.

Bởi vì CFC-11 vẫn chiếm một phần tư lượng clo tồn tại trong tầng bình lưu ngày nay, kỳ vọng lỗ hổng ôzôn sẽ hồi phục vào giữa thế kỷ phụ thuộc vào sự giảm đi nhanh chóng của CFC-11 trong khí quyển – điều này sẽ xảy ra nếu như không có sản phẩm CFC-11 mới. Mặc dù lượng khí thải CFC-11 đang gia tăng, nhưng nồng độ của nó trong khí quyển vẫn tiếp tục giảm, nhưng tốc độ chỉ bằng một nửa so với vài năm trước, chậm hơn đáng kể với dự kiến. Điều này có nghĩa rằng tổng nồng độ của các hóa chất trong khí quyển gây suy giảm ôzôn nói chung vẫn đang giảm. Tuy nhiên, mức giảm đó chậm hơn đáng kể so với khi không có phát thải CFC mới.

Các phép đo chính xác nồng độ khí quyển toàn cầu của CFC-11 được thực hiện bởi các nhà khoa học NOAA và CIRES tại 12 địa điểm trên toàn cầu cho thấy: nồng độ CFC-11 giảm dần như mong đợi tại thời điểm trước 2002. Sau đó, đáng ngạc nhiên, tỷ lệ suy giảm hầu như không thay đổi trong một thập kỷ tiếp theo. Bất ngờ hơn là tỷ lệ suy giảm chậm lại 50% sau năm 2012. Sau khi xem xét một số nguyên nhân có thể, Montzka và các cộng sự đã kết luận rằng phát thải CFC đã tăng lên sau năm 2012. Kết luận này đã được xác nhận bởi những thay đổi khác được ghi nhận trong các phép đo của NOAA trong cùng thời kỳ, chẳng hạn như sự khác biệt giữa nồng độ CFC-11 ở bán cầu bắc và nam – bằng chứng cho thấy nguồn mới phát thải đâu đó ở phía bắc đường xích đạo.

Các phép đo từ Hawaii cho thấy các nguồn phát thải có khả năng ở Đông Á. Montzka cho biết sẽ cần nhiều công việc hơn để thu hẹp vị trí các phát thải mới này.
Hiệp định Montreal đã có hiệu quả trong việc giảm khí thải tầng ôzôn trong khí quyển, tất cả các nước trên thế giới đã đồng ý ràng buộc về mặt pháp lý đối với việc sản xuất các loại khí nhân tạo phá hủy tầng ôzôn. Theo yêu cầu của hiệp ước, các quốc gia đã báo cáo: mỗi năm có ít hơn 500 tấn CFC được sản xuất mới, kể từ năm 2010. Kết quả là nồng độ CFC-11 đã giảm 15% so với mức đỉnh được đo vào năm 1993.

Điều đó đã khiến các nhà khoa học dự đoán rằng từ giữa đến cuối thế kỷ , các chất làm suy giảm tầng ôzôn sẽ giảm xuống mức như trước khi lỗ thủng ôzôn ở Nam Cực bắt đầu xuất hiện vào đầu những năm 1980.

Tuy nhiên, kết quả từ phân tích mới về các phép đo khí quyển của NOAA cho thấy rằng từ năm 2014 đến năm 2016, lượng phát thải CFC-11 tăng 14.000 tấn/năm lên khoảng 65.000 tấn/năm, nhiều hơn mức phát thải trung bình từ giai đoạn 2002-2012 đến 25%.

Các sản phẩm CFC-11 được bán trên thị trường dưới tên thương mại Freon, đạt đỉnh khoảng 430.000 tấn mỗi năm vào những năm 1980. Phát thải của CFC vào khí quyển đạt khoảng 386.000 tấn/năm vào lúc cao điểm cuối thập niên này.

Những phát hiện này cho thấy, lần đầu tiên, lượng phát thải CFCs đã tăng lên sau một thời gian dài kể từ khi các biện pháp kiểm soát sản xuất có hiệu lực vào cuối những năm 1980.

Montzka cho biết: Nếu nguồn phát thải này có thể được xác định và giảm thiểu sớm thì thiệt hại cho tầng ôzôn sẽ không đáng kể. Tuy nhiên, nếu không được khắc phục sớm, sẽ có sự chậm trễ đáng kể trong việc phục hồi tầng ôzôn.

David Fahey, giám đốc NOAA’s Chemical Science Division và là đồng chủ tịch của United Nations Environment Programme’s Ozone Secretariat ‘s Science Advisory Panel, cho biết việc giám sát liên tục khí quyển sẽ là chìa khóa để đảm bảo mục tiêu khôi phục tầng ôzôn.

“Việc phân tích các phép đo khí quyển cực kỳ chính xác này là một ví dụ tuyệt vời về tính cảnh giác cần thiết để đảm bảo tuân thủ các quy định của hiệp định Montreal và bảo vệ tầng ôzôn của Trái đất”, Fahey cho biết.

Unisys ra mắt phụ kiện cho thú cưng sử dụng công nghệ IoT

Công ty Unisys vừa ra mắt Digi-pet, một hệ thống cảm biến và ứng dụng để theo dõi sự thoải mái của động vật trong quá trình vận chuyển hàng không. Digi-pet kết nối trực tiếp thú cưng ở trong khoang vận chuyển với chủ sở hữu của chúng thông qua một ứng dụng di động, với hệ thống cảnh báo tự động, streaming video trực tiếp, và thậm chí trò chuyện bằng giọng nói. Mục đích là làm cho các chuyến đi của các vật nuôi trở nên dễ dàng hơn và cũng tạo sự an tâm cho chủ nhân của chúng.

Hệ thống này không chỉ phục vụ cho động vật nuôi. Nó cũng có thể được sử dụng để đảm bảo vận chuyển an toàn và thoải mái của ngựa, gia súc, và nhiều hơn nữa – bất kỳ hành trình nào trong đó mức độ nhiệt, ánh sáng, và oxy phù hợp là cần thiết cho động vật dễ bị tổn thương.

Công bố của Unisys là rất kịp thời, bởi vì thách thức vận chuyển động vật qua đường hàng không một cách an toàn đã trở thành tiêu điểm tin tức gần đây. Tháng 3, United Airlines ngừng dịch vụ PetSafe sau cái chết của một con chó bị buộc phải đi du lịch trong một thùng hành lý trên cao, và sự xuất hiện của những vấn đề nghiêm trọng khác đối với việc điều trị thú cưng. Hãng hàng không này, chịu trách nhiệm về 27% tổng số vận tải bằng đường hàng không ở Mỹ, đang tiến hành rà soát lại cách cải tiến dịch vụ.

Theo Bộ Vận tải Hoa Kỳ, hơn một nửa triệu con vật được vận chuyển bằng đường hàng không trong nước Mỹ năm ngoái. Hai mươi bốn trong số chúng đã chết, 15 con bị thương, 1 con đã bị lạc trong quá trình vận chuyển. Ngược lại, năm ngoái, có vẻ như không có cái chết của hành khách người trên máy bay thương mại.

Với những cái chết của thú cưng hoặc bị ngược đãi trên các trang tin tức là lý do chính khiến mọi người muốn kết nối với vật nuôi của mình trong quá trình vận chuyển. Lý do khác học muốn thú cưng của mình luôn cảm thấy an toàn và thoải mái, đặc biệt là trên các chuyến bay đường dài.

Venkatesh Pazhyanur, giám đốc cao cấp của Unisy nói: “Thú cưng lớn luôn được vận chuyển trong các khoang hàng. Unisys Digi-Pet sử dụng cảm biến IoT để cung cấp cho chủ nhân vật nuôi khả năng hiển thị đầy đủ về sự thoải mái và điều kiện môi trường của vật nuôi cũng như giúp họ nói chuyện với thú cưng của mình – làm dịu cả vật nuôi và chủ nhân.”.

“Unisys Digi-Pet sử dụng công nghệ IoT sáng tạo để cho phép các hãng hàng không cung cấp dịch vụ du lịch hấp dẫn cho thú cưng, cho phép họ nhập và nắm bắt một thị trường năng suất cao đang phát triển, đồng thời nâng cao trải nghiệm và lòng trung thành của khách hàng vì chủ sở hữu vật nuôi không cần phải tìm chuyên ngành vật nuôi hoặc các phương tiện giao thông khác cho nhu cầu của họ.” Pazhyanur cho biết thêm.

Digi-Pet là thành phần mới nhất của bộ Digisics của Unisys, một loạt các công cụ hậu cần được thiết kế cho các ứng dụng hàng không. Mục tiêu của các giải pháp là hợp lý hoá hoạt động vận tải và nâng cao hiệu quả.

Khách hàng có thể lựa chọn từ một loạt các lựa chọn logistics, từ quản lý hàng tồn kho và các công cụ kế toán đến công nghệ IoT để vận chuyển động vật.

Unisys Digistics Transport hiện đã có khách hàng là 20 hãng hàng không trên toàn cầu, tổng cộng hơn 180.000 chuyến bay có chở động vật mỗi năm.

Nguồn: The pet set: Unisys IoT connects air passengers with their pets

Sinh viên K59 bảo vệ khóa luận tốt nghiệp

Ngày 15/05/2018, lễ bảo vệ khóa luận tốt nghiệp cho sinh viên K59 đã được tổ chức tại Đại học Công Nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội.

Năm nay, trung tâm FIMO có 9 sinh viên đăng ký bảo vệ trong đợt 1/2018.

Chúc mừng các sinh viên FIMO đã bảo vệ thành công khóa luận tốt nghiệp với kết quả cao.

Danh sách sinh viên và đề tài bảo vệ năm nay:

STT Họ tên Tên đề tài
1 Nguyễn Văn Báu Nâng cấp hệ thống thu nhận, quản lý và chia sẻ dữ liệu ảnh vệ tinh từ trạm thu mặt đất (hệ thống SHRIMP) sử dụng công nghệ lưu trữ phân tán
2 Nguyễn Bá Hữu Chí Xây dựng hệ thống tìm người giúp việc trực tuyến cho phiên bản web sử dụng nền tảng Meteor
3 Nguyễn Ngọc Đức Ứng dụng chuẩn SensorThings API và phần mềm mã nguồn mở FROST-Server trong việc nâng cấp FAirServer cho hệ thống FAirNet giám sát nồng độ bụi (PM)
4 Nguyễn Văn Hải Ứng dụng chuẩn SensorThings và Công nghệ đa nền tảng Meteor trong việc nâng cấp FAirWeb và FAirApp cho hệ thống FAirNet giám sát nồng độ bụi (PM)
5 Phạm Đức Chung Nghiên cứu phương pháp phân loại tự động lớp phủ lúa ở Đồng bằng sông Hồng sử dụng ảnh vệ tinh Sentinel 1A
6 Nguyễn Văn Hùng Nghiên cứu và đánh giá mô hình chất lượng không khí trên lãnh thổ Việt Nam
7 Ngô Xuân Trường Nghiên cứu phương pháp tích hợp ảnh vệ tinh MODIS và VIIRS cho bài toán giám sát chất lượng không khí
8 Chu Thừa Vũ Ứng dụng công nghệ 3D GIS để xây dựng thành phố ảo
9 Nguyễn Văn Quyến Xây dựng VNU Virtual Campus cho Đại học Quốc gia Hà Nội sử dụng công nghệ 3d-GIS trên nền tảng Android

Một số hình ảnh trong lễ bảo vệ:

Bạn Nguyễn Văn Báu bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Báu bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Bá Hữu Chí bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Bá Hữu Chí bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Ngọc Đức bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Ngọc Đức bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Hải bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Hải bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Hùng bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Hùng bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Quyến bảo vệ khóa luận

Bạn Nguyễn Văn Quyến bảo vệ khóa luận

Bạn Ngô Xuân Trường bảo vệ khóa luận

Bạn Ngô Xuân Trường bảo vệ khóa luận

Chúc các bạn thành công và và vững bước trên con đường sự nghiệp của riêng mình.

Sinh viên khóa K59-UET bảo vệ thử khóa luận tốt nghiệp tại FIMO

Chiều 14/05, tại P408 – FIMO đã tổ chức buổi bảo vệ thử khóa luận tốt nghiệp, cho các bạn sinh viên khóa K59-UET bảo vệ khóa luận đợt I năm 2018.

Tham dự có các thầy cô và, nghiên cứu viên, nghiên cứu sinh, và các bạn sinh viên K59 chuẩn bị bảo vệ chính thức khóa luận tốt nghiệp năm 2018. Đây là truyền thống hàng năm của FIMO. Năm nay có 9 sinh viên làm khóa luận tại FIMO.

Mở đầu buổi trình bày là bạn sinh viên Nguyễn Văn Báu với đề tài: Nâng cấp hệ thống thu nhận, quản lý và chia sẻ dữ liệu ảnh vệ tinh từ trạm thu mặt đất (hệ thống SHRIMP) sử dụng công nghệ lưu trữ phân tán

Tiếp đó là bạn sinh viên Nguyễn Bá Hữu Chí với đề tài: Xây dựng hệ thống tìm người giúp việc trực tuyến cho phiên bản web sử dụng nền tảng Meteor

Tiếp đó là bạn sinh viên Nguyễn Ngọc Đức với đề tài: Ứng dụng chuẩn SensorThings API và phần mềm mã nguồn mở FROST-Server trong việc nâng cấp FAirServer cho hệ thống FAirNet giám sát nồng độ bụi (PM)

Tiếp đó là bạn sinh viên Nguyễn Văn Hải với đề tài: Ứng dụng chuẩn SensorThings và Công nghệ đa nền tảng Meteor trong việc nâng cấp FAirWeb và FAirApp cho hệ thống FAirNet giám sát nồng độ bụi (PM)

Tiếp đó là bạn sinh viên Phạm Đức Chung với đề tài: Nghiên cứu phương pháp phân loại tự động lớp phủ lúa ở Đồng bằng sông Hồng sử dụng ảnh vệ tinh Sentinel 1A

Tiếp đó là bạn sinh viên Nguyễn Văn Hùng với đề tài: Nghiên cứu và đánh giá mô hình chất lượng không khí trên lãnh thổ Việt Nam

Tiếp đó là bạn sinh viên Ngô Xuân Trường với đề tài: Nghiên cứu phương pháp tích hợp ảnh vệ tinh MODIS và VIIRS cho bài toán giám sát chất lượng không khí

Tiếp đó là bạn sinh viên Chu Thừa Vũ với đề tài: Ứng dụng công nghệ 3D GIS để xây dựng thành phố ảo

Và cuối cùng là bạn sinh viên Nguyễn Văn Quyến với đề tài: Xây dựng VNU Virtual Campus cho Đại học Quốc gia Hà Nội sử dụng công nghệ 3d-GIS trên nền tảng Android

Chúc các bạn sinh viên bảo vệ khóa luận thành công.

Sử dụng trí tuệ nhân tạo phát hiện loại cây từ ảnh chụp máy bay không người lái

Một máy bay không người lái ở lớp người dùng phổ thông có khả chụp ảnh cây cối từ trên cao với độ chit tiết đủ tốt để huấn luyện một thuật toán học sâu trong việc phân biệt các loài cây khác nhau.

Phạm vi nghiên cứu nằm trong dự án một dự án sử dụng máy bay không người lái trên một khu vực của rừng ở Kyoto, Nhật Bản, nhóm nghiên cứu đã thực hiện chụp ảnh, huấn luyện mô hình, thuật toán để có thể phân biệt được 7 loại đối tượng trong đó có sáu loại cây và một loại dành cho các đối tượng khác như đất trống hoặc các tòa nhà.

Kết quả sau khi triển khai thuật toán (mô hình được chạy trên một máy tính có cấu hình bình thường) đạt được độ chính xác lên đến 89%.

Các cuộc khảo sát rừng thường sử dụng các hệ thống đắt tiền được trang bị camera chuyên dụng. Kết quả nghiên cứu mở ra một cách tiếp cập tốn kém ít chi phí hơn để tự động thực hiện các công việc giám sát cây rừng và thuật toán có thể được đào điều chỉnh để hỗ trợ ứng phó thiên tai, kiểm tra đường ống rò rỉ hoặc trợ giúp các công việc giám sát khác mang tính cấp bách trên một khu vực rộng lớn.

Nguồn:  An AI learns to spot tree species, with help from a drone