Nvidia hợp tác với Alibaba và Huawei trong việc phát triển thành phố thông minh

Panoramic photo of Auckland city near the industrial area. Auckland Region, North Island, New Zealand

Nvidia đã xâu dựng các nền tảng cho thành phố thông minh sử dụng trí tuệ nhân tạo giống như trong truyện tranh DC, nhưng nó thực sự là một công cụ giám sát thông minh dựa trên GPU, có thể giúp giảm thiểu tắc nghẽn giao thông, phân bổ các dịch vụ của thành phố và thậm chí tìm kiếm người mất tích.

Và Metropolis đã chọn hai đối tác mới là Alibaba và Huawei. Nvidia cũng đưa vào bộ công cụ phát triển phần mềm DeepStream trong phiên bản đã có của Metropolis.

Metropolis sử dụng dữ liệu là các đoạn video và dữ liệu được thu thập từ hơn 1 tỷ các camera được kết nối và dự kiến ​​sẽ được lắp đặt tại các thành phố trên thế giới vào cuối năm 2020 để chạy nhiều ứng dụng phân tích sử dụng AI, có thể hỗ trợ mọi thứ từ thực thi pháp luật đến quy hoạch đô thị.

Nvidia cũng đang ra mắt một số ứng dụng của công nghệ này tại hội nghị GTX tại Bắc Kinh ngày 28/9, bao gồm một dự án từ Viện nghiên cứu Hikvision của Trung Quốc, sử dụng kết hợp giữa Jetson, Tesla P4 và DGX-1 để đạt tỷ lệ thu hồi 90% đối với việc nhận dạng khuôn mặt và phát hiện, chồng khớp khuôn mặt.

Bản đồ 3D của bão Irma

Hình ảnh 3D của bão Irma đã được ghi lại bởi vệ tinh CloudSat (NASA) khi cơn bão tiếp cận Puerto Rico (Đại Tây Dương) vào ngày 6 tháng 9. Bão Irma có sức gió được ước tính tối đa là 298 km/giờ.

NASA đã phóng 3 vệ tinh quan trắc Trái Đất CloudSat và Cloud-Aerosol Lidar và CALIPSO để nghiên cứu vai trò của đám mây và aerosols trong sự biến động thời tiết, khí hậu và chất lượng không khí trên Trái Đất.

Vệ tinh CloudSat đã băng qua phía đông của mắt bão Irma và tiết lộ chi tiết về cấu trúc đám mây bão. Radar phân tích mây CloudSat vượt trội trong việc phát hiện cấu tạo và bố trí các lớp mây dưới xoáy bão của bão, không dễ dàng phát hiện bởi các bộ cảm biến vệ tinh khác.

Các vùng đối lưu mạnh với lượng mưa từ vừa phải đến nặng (màu đỏ đậm và màu hồng). Khu vực không có mây là mắt bão. Điểm cao nhất của đám mây đạt từ 15-16km. Các giá trị màu thấp hơn (vùng xanh lục và xanh lam) cho thấy kích thước hạt mưa nhỏ mà thưa hơn.

Radar phân tích mây sẽ mất tín hiệu sau khoảng 5 km do các hạt nước (băng) có đường kính lớn hơn 3 mm. Lượng mưa trung bình đến lớn xuất hiện ở những khu vực phát hiện được sự yếu đi của tín hiệu. Những đám mây nhỏ hơn rõ ràng khi CloudSat di chuyển ra phía nam, bên dưới lớp vỏ mỏng màu da cam.

CloudSat và CALIPSO đang thu thập thông tin về cấu trúc của đám mây và aerosols mà không thể thu thập từ các vệ tinh khác. Dữ liệu của 2 vệ tinh này đang gop phần cải tiến các mô hình của NASA và cung cấp sự hiểu biết tốt hơn về tác động của con người lên bầu khí quyển.

Nguồn: spatialsource.com.au

Bản đồ thiệt hại của NASA về trận động đất ở Mexico hỗ trợ công tác cứu hộ cứu nạn

NASA-Caltech đã tạo ra bản đồ cho thấy thiệt hại trong và xung quanh thành phố Mexico do trận động đất ngày 19 tháng 9. Sự biến đổi màu từ vàng sang đỏ cho thấy có sự thay đổi bề mặt đáng kể. Nguồn: NASA-JPL / Caltech / ESA / Copernicus / Google

NASA-Caltech đã tạo ra bản đồ cho thấy thiệt hại trong và xung quanh thành phố Mexico do trận động đất ngày 19 tháng 9. Sự biến đổi màu từ vàng sang đỏ cho thấy có sự thay đổi bề mặt đáng kể. Nguồn: NASA-JPL / Caltech / ESA / Copernicus / Google

NASA đã tạo ra một bản đồ các khu vực bị hư hại nặng do trận động đất 7,1 độ richter ở Mexico. Bản đồ giúp cho chính phủ Mexico và các cơ quan tư nhân khác trong công tác cứu trợ và cứu hộ. Trận động đất có tâm chấn ở Pueblo, gây ra tổn thất to lớn cho cuộc sống và tài sản.

Bản đồ thiệt hại

Các nhà khoa học thuộc Phòng thí nghiệm phản lực của NASA (JPL) và Caltech, đều ở Pasadena, California, đã sử dụng hình ảnh RADAR giao thoa khẩu độ tổng hợp interferometric interferometric (InSAR) của Mexico, xác định các khu vực bị hư hỏng nặng và tạo bản đồ Thiệt hại. Hình ảnh được thu nhận từ vệ tinh Sentinel 1-A và Sentinel 1-B do Cơ quan Vũ trụ Châu Âu điều hành.

Các radar trong vệ tinh đã có thể phát hiện ra thiệt hại do trận động đất gây ra và những gợn sóng và chấn động ngay lập tức trên cơ sở thay đổi bề mặt mặt đất. Sự biến đổi màu sắc từ vàng sang đỏ cho thấy những thay đổi đáng kể trong mặt đất và các bề mặt xây dựng. Bản đồ che phủ một vùng rộng 109 x 106 dặm. Mỗi điểm ảnh đo khoảng 30m.

Việc xử lý dữ liệu radar đã được thực hiện bởi nhóm Nghiên cứu và Phân tích Hình ảnh nhanh(ARMA) tại JPL và Caltech. ARIA là dự án do NASA tài trợ nhằm cung cấp các dữ liệu GPS và vệ tinh đáng tin cậy và chính xác cao để hỗ trợ các cộng đồng giám sát thiên tai địa phương, khu vực, quốc gia và quốc tế và cứu trợ cộng đồng.

Tiện ích trong hoạt động cứu trợ và cứu hộ

Chương trình thiên tai của NASA, một bộ phận của Phòng Khoa học Trái đất, hợp tác với các cơ quan ứng phó thiên tai ở nhiều cấp độ, để sản xuất các sản phẩm thông tin sử dụng dữ liệu môi trường toàn cầu với sự trợ giúp của đội Khoa học Trái đất và vệ tinh NASA. Các chuyên gia quan sát mặt đất tại NASA đưa ra phản hồi thời gian thực đối với các thảm hoạ tự nhiên và các mối nguy hiểm do con người gây ra.

Các vệ tinh ARIA có khả năng đánh giá nhanh các khu vực địa lý bị ảnh hưởng bởi thảm hoạ, cũng như hình ảnh chính xác vị trí gây thiệt hại lớn nhất. Vệ tinh có thể đo được tốc độ chuyển động của mặt đất tới centimeter bằng cách nhìn xuyên qua các đám mây. Tất cả điều này được thực hiện với việc sử dụng hình ảnh vệ tinh.

Bản đồ Thiệt hại đã được xác nhận bằng cách so sánh nó với một bản đồ Google. Dữ liệu Sentinel-1 đã được truy cập thông qua Trung tâm Truy cập Mở Copernicus. Hình ảnh này bao gồm dữ liệu Sentinel được xử lý bởi ESA và phân tích bởi nhóm NASA và Caltech.

Nguồn: https://www.geospatialworld.net

Các kỹ sư của UCSD phát triển cảm biến siêu nhỏ, siêu tiết kiệm năng lượng cho các thiết bị đeo

 

Các kỹ sư của Đại học California, San Diego (UCSD), đã công bố phát triển thành công cảm biến nhiệt độ có thể chạy được chỉ với 113 picowatts điện năng: điện năng thấp gấp 628 lần so với các cảm biến phổ biên hiện nay, chỉ vào khoảng 1 phần 10 tỷ watt. Công nghệ này có thể mở cánh cửa cho các thiết bị đeo với tuổi thọ pin vượt xa các thiết bị hiện có trên thị trường. Đồng thời công nghệ này cũng có thể áp dụng cho các hệ thống giám sát nhiệt độ cơ thể, nhà thông minh, các thiết bị Internet of Things (IoT) hay trong lĩnh vực giám sát môi trường.

Trong một nghiên cứu gần đây được xuất bản trên tạp chí Nature, Near-Zero-Power Temperature Sensing via Tunnelling Channels Through Complementary Metal-Oxide-Semiconductor Transistors, các nhà nghiên cứu của UCSD, Hui Wang và Patrick P. Mercier đã giải thích làm thế nào mà công nghệ này có thể cho phép sản xuất những cảm biến siêu nhỏ và siêu tiết kiệm năng lượng. Mong muốn của học là là sử dụng công nghệ này để phát triển các thiết bị đeo nhỏ hơn, có thể được cung cấp năng lượng bằng cách hấp thụ năng lượng từ những nguồn cực kỳ thấp, thậm chí cả từ cơ thể và môi trường xung quanh. Điều này có thể sẽ chấm dứt việc phải sạc lại hay thay thế pin của các thiết bị.

Ngoài các thiết bị đeo, có thể nói là môi trường là lĩnh được hưởng lợi nhiều nhất từ ​​cảm biến nhiệt độ siêu tiết kiệm năng lượng. Các thiết bị ngoài hiện trường, kể cả phao và các hệ thống đo nhiệt độ khác, có thể sớm hoạt động được lâu hơn. Điều này sẽ cho phép các nhà khoa học khí hậu phát triển các mạng lưới cảm biến lớn hơn và có quyền truy cập vào nhiều dữ liệu hơn bao giờ hết.

Cảm biến nhiệt độ được phát triển tại UC San Diego rất nhỏ và hiệu suất cao. Được tích hợp trong một con chip chỉ 0.15mm vuông, nó có thể hoạt động ở nhiệt độ từ -20 ° C đến 40 ° C.

Để đánh đổi về mặt hiệu suất, cảm biến có thời gian đáp ứng chậm hơn so với các công nghệ hiện đang sử dụng. Tuy nhiên, với tần suất đo được một lần mỗi giây, tỷ lệ này là đủ để đo các đơn vị tương đối ổn định. Nhiệt độ môi trường và nhiệt độ cơ thể thường ít có dao động lớn trong một khoảng thời gian ngắn.

Trong tương lai, nhóm nghiên cứu của UCSD có kế hoạch nâng cao độ chính xác của cảm biến nhiệt độ. Nó cũng sẽ bắt đầu quá trình tối ưu hóa thiết kế để cho phép công nghệ của họ được sử dụng trong các thiết bị thương mại.

Nguồn: UCSD engineers develop near-zero-power sensor for ‘unawearables’

Google theo dõi sự ô nhiễm không khí khi lập bản đồ đường phố

Tại Oakland, California, những chiếc xe của Google thu thập bản đồ và hình ảnh đường phố cũng thu thập không khí và đo khối lượng ô nhiễm theo thành phố.

Melissa Lunden là nhà khoa học chính của Aclima, công ty đã xây dựng thiết bị cảm biến ô nhiễm được bổ sung vào các chiếc xe Street View của Google.

Đó là những mẫu khí ozon, NO, NO2, CO2, khí mê-tan”, Lunden nói. “Bạn thấy giao thông, bạn nhìn thấy đường phố, bạn có thể nhìn thấy ô nhiễm không khí. Dữ liệu đó được tải lên internet trong thời gian thực. ”

Kết quả là một bản đồ chi tiết cho thấy chính xác nơi không khí ở Oakland bị ô nhiễm nhất.

Lunden nói: “Điểm nóng này là khoảng 100 mét đường đó, liên tục trong một năm.

Trong tương lai, công nghệ này có thể cung cấp bản đồ thành phố với mức ô nhiễm giống như cách chúng ta có thể thấy ùn tắc giao thông trên điện thoại thông minh.

“Bạn cũng có thể lấy loại dữ liệu này và đưa ra một tuyến đường xe đạp hoặc một tuyến đi bộ hoặc tuyến đường đến trường, nơi mà bạn giảm thiểu sự phơi nhiễm với chất gây ô nhiễm”, Lunden nói.

Steve Hamburg là khoa học gia chính của Quỹ Bảo vệ Môi trường, giúp trả tiền cho dự án lập bản đồ ô nhiễm. Ông nói các bản đồ ô nhiễm chi tiết thậm chí có thể ảnh hưởng đến giá bất động sản.

Hamburg nói: “Giờ đây chúng ta có khả năng thực sự làm cho ô nhiễm đó có thể nhìn thấy được đối với tất cả mọi người.

“Bây giờ bạn không biết bạn đang mua cái gì. Điều này sẽ làm cho nó minh bạch, và điều đó tạo thêm áp lực, một lần nữa, chúng ta hãy khắc phục những vấn đề này, “ông nói.

It’s a technology that makes visible what is now mostly invisible, and when it comes to air pollution, what you can’t see can hurt you.

 

Bạn có biết các cơn bão được đặt tên như thế nào không?

Các cơn bão đang chiếm lĩnh các buổi thảo luận toàn cầu hơn bất cứ điều gì trong hai tuần qua. Bão Harvey hai tuần trước đã tàn phá và gây thiệt hại lên đến 23 tỷ USD. Bão Irma đã phá hủy nhà cửa, cây cối, tài sản trên vùng Caribbean và Florida. Bão Jose và Katia hiện được dự báo sẽ trở thành những cơn bão mạnh và đã ảnh hưởng nhiều nhất đến Mexico. Bão Lee đang suy yếu, trong khi bão Maria đang di chuyển về phía bắc sau khi phá huỷ hầu hết Puerto Rico.

Bạn có chú ý đến tên của các cơn bão: Harvey, Irma, Jose, Katie, Lee, Maria? Bạn có bao giờ tự hỏi tại sao những cơn bão dữ dội, tàn phá tất cả mọi thứ trên đường đi của nó, dẫn đến cái chết, di dời và hủy diệt lại được gọi nhẹ nhàng bằng những âm thanh yêu thương như Harvey, Irma, Jose và Katia?

Nó chắc chắn là một điểm thú vị để suy ngẫm, nhưng đằng sau việc đặt tên là cả một quy ước.

Thứ tự từ A – Z

Hầu hết các cơn bão đều được đặt tên từ A-Z theo danh sách do Trung tâm Bão quốc gia Hoa Kỳ chuẩn bị. Danh sách này bao gồm 21 cái tên cho các cơn bão được chuẩn bị từ bảy năm trước. Điều này có nghĩa, trận bão đầu tiên vào năm 2022 sẽ có tên là Alex và cơn bão thứ 21 – nếu không may xảy đến – sẽ được gọi là Walter.

Nếu toàn bộ danh sách đặt tên đã được sử dụng trong một năm vì nhiều cơn bão liên tiếp, sau đó thay vì lặp lại danh sách từ đầu, các bảng chữ cái Hy Lạp được chọn, với alpha là chữ cái đầu tiên. Tên của cơn bão đặc biệt phá hủy sẽ thường không được sử dụng nữa. Ví dụ Matthew và Otto là những tên cuối cùng được sử dụng sau khi đem đến thiệt hại to lớn vào năm 2016.

Danh mục tên các cơn bão là một vấn đề rất nghiêm trọng và đó là lý do tại sao Tổ chức Khí tượng Thế giới của Liên Hợp Quốc (WMO) có quyền phủ quyết về danh mục này.

Còn về cơn bão có tên là ISIS?

Tuy nhiên, vào năm 2015, WMO cấm đặt tên cơn bão là ISIS – nữ thần sinh sản Ai Cập cổ đại và từ viết tắt tên của nhóm khủng bố khét tiếng Nhà nước Hồi giáo Irac và Syria.

Trên thực tế, nếu không bị cấm và một số cơn bão đã được đặt tên là ISIS, nó sẽ tạo ra sự náo loạn và phản đối gay gắt của công chúng vì sự vô cảm quá mức khi so sánh thiên tai với một nhóm giết người điên cuồng, tàn bạo và lạnh lùng máy móc. Nếu vậy, theo một cách nào đó đã cố ý làm bình thường hóa chủ nghĩa khủng bố.

Bão ở khu vực Bắc Thái Bình Dương có một danh pháp phức tạp hơn. Tên bão được lấy từ 14 quốc gia trong khu vực, có thể là của động vật, thực vật, nhân vật thần thoại, hoặc đơn giản là bất cứ thứ gì. Các tên này được ủy ban quản lý bão WMOs tại Tokyo, Nhật Bản xem xét và sau đó được ban hành. Tuy nhiên, các quốc gia không bị bắt buộc sử dụng các tên bão này trong các báo cáo thời tiết của họ.

Vậy khi nào thì quy ước đặt tên bão được bắt đầu?

Các cơn bão bắt đầu được đặt tên vào năm 1950. Tên gọi được ưa chuộng hơn so với các số và mã số bởi trước đây vì rất dễ nhớ và tiện lợi để sử dụng.

Trước khi được đặt tên, các cơn bão thường được xác định dựa trên vị trí vĩ độ và kinh độ. Tuy nhiên, phương pháp này thường có sai số lớn vì vị trí của các cơn bão lớn không bao giờ là cố định.

Đặt tên cho cơn bão và bão lớn không phải lúc nào cũng là lĩnh vực của các nhà khoa học, các nhà khí tượng học và các quan chức. Việc đặt tên này thực tế bắt đầu từ rất sớm. Vào thế kỷ 19, người ta thường gọi tên các cơn bão bằng tên các vị thánh Công giáo.

Còn về tính bình đẳng giới trong việc đặt tên?

Ngày nay, tên của nam giới và nữ giới được xen kẽ trong các cơn bão. Nhưng trong hàng thập kỷ, tên nữ giới được sử dụng áp đảo cho các cơn bão. Trong Thế chiến thứ hai, các thủy thủ Mỹ đã sử dụng tên cơn bão bằng tên bạn gái và vợ của họ. Chính phủ cũng áp dụng truyền thống này để đặt tên cơn bão cho đến những năm 1970. Trong những năm này, chiến dịch vì bình đẳng giới cho rằng cách đặt tên này là phân biệt giới tính. Do vậy, nó đã bị hủy bỏ vào năm 1979. Tuy nhiên, những thái độ cũ và những định kiến về giới vẫn còn tồn tại. Điều này đã được phản ánh trong một tạp chí nghiên cứu năm 2014 đang gây tranh cãi về những cơn bão tên gọi phụ nữ gây chết người hơn vì mọi người thường không coi trọng chúng.

Nguồn: GeoSpatialWorld

Seven Trent Waters sử dụng dịch vụ phân tích dữ liệu Raztecs để phát hiện rò rỉ đường ống

Seven Trent Water đang sử dụng sản phẩm dữ liệu vệ tinh phát hiện rò rỉ đường ống của Rezatec để giảm chi phí và nâng cao hiệu quả vận hành. Rezatec đã phát triển sản phẩm dữ liệu rò rỉ đường ống từ dữ liệu vệ tinh kết hợp với học máy và các thuật toán xử lý dữ liệu.

Rezatec đang thực hiện phân tích các loại vệ tinh khác nhau để xác định các rò rỉ tiềm ẩn bằng cách quan sát những thay đổi về cảnh quan như thảm thực vật, hàm lượng nước có trong đất và chuyển động của mặt đất.

Rezatec thu thập dữ liệu thường xuyên để đánh giá rủi ro đối với đường ống và các hồ chứa. Trong trường hợp có thay đổi đáng kể, người quản lý tài sản được cảnh báo trước khi tai nạn xảy ra. Rezatec sử dụng một cổng thông tin để phân phối dữ liệu của họ đến người dùng. Người dùng có thể tương tác với dữ liệu sử dụng giao diện tương tác.\

Source: Seven Trent Waters uses Raztecs data analytics to detect pipeline leakage

Tàu du lịch phát hiện ngoài mạn thuyền với LiDAR

Tháng 3 năm 2017 Brandon Paul 23 tuổi đến từ Florida đã bị rơi xuống biển từ tàu du lịch ở vùng biển phía Bắc Cuba sau khi đi ra ngoài mạn thuyền, lực lượng Cảnh sát biển Hoa Ký đã tiến hành tìm kiếm liên tục trong 16 giờ và phạm vi che phủ của diện tích tìm kiếm tới 3.469 dặm vuông nhưng kết quả tìm kiếm đã không như mong đợi. Theo trang  Cruisejunkie.com báo cáo rằng từ năm 2006 đến năm 2015 trung bình mỗi năm có trên 21 người, đã bị báo cáo mất tích sau khi đi ra ngoài mạn thuyền.

Gần đây, Frank Bertini, quản lý kinh doanh UAV & Robotics cho Velodyne LiDAR, đã hợp tác chặt chẽ với Jack Gillespie, Giám đốc phát triển kinh doanh cho công ty về công nghệ tự động hóa Mechaspin phát triển một hệ thống Man Overboard Detection (MOD) cho ngành công nghiệp tàu thủy. Hệ thống có thể phát hiện và đo bất kỳ vật nào rơi ra từ tàu. Sau khi được phát hiện, hệ thống sẽ gửi các cảnh báo về người hoặc đối tượng trên bờ. Dựa trên những cảnh báo này, các hệ thống lái tự động của tàu có thể ngắt nguồn điện động cơ của tàu và thông báo cho phi hành đoàn về trường hợp khẩn cấp.

Tàu du lịch sử dụng LiDAR

Tàu du lịch sử dụng LiDAR

Theo hiệp hội quốc tế Cruise Lines (CLIA), có hơn 60 hãng tàu trên toàn cầu sẽ vận chuyển 25.8 triệu hành khách trong năm 2017. Khoảng 25 tàu mới được chế tạo mỗi năm, mỗi chiếc có sức chứa khoảng 1.000 hành khách. Mặc dù tỷ lệ mất tích của hành khách trên tàu là tương đối thấp, nhưng trong ngành công nghiệp tàu thủy nhận thấy nhu cầu bảo vệ an toàn cho mọi hành khách là cần thiết. Ngoài ra, các công ty du lịch biển hiện đang cạnh tranh với nhau rất khốc liệt về hành khách. Các thông tin tiêu cực từ báo chí khi một hành khách mất tích trên biển có thể dẫn đến thiệt hại hàng triệu đô trong doanh thu bị mất. Do đó, an toàn vận hành là mối quan tâm hàng đầu của các thuyền trưởng và các nhà quản lý kinh doanh.

Cùng với sự an toàn trong hoạt động du lịch biển, vấn đề về sự ô nhiễm và xả rác từ các con tàu tàu là mối bận tâm ngày càng tăng. Các buổi tiệc tùng trên tàu là không tránh khỏi, do đó việc cho một chai bia hoặc một số đồ đạc không dùng nữa rơi ra khỏi tàu là rất thường xuyên. Nhiều chính phủ đã đưa ra các quy định mới về môi trường cho tàu du lịch. Trong một số vùng nước, mọi vật rơi ra từ tàu thủy đều có thể bị phạt tiền. Với hệ thống MOD của Mechaspin, các hãng tàu du lịch có thể phát triển cơ sở dữ liệu riêng về bằng chứng các đồ vật rơi ra khỏi tàu.

MOD System

MOD System

Hệ thống MOD từ Mechaspin liên quan đến nhiều VLP-16, được gọi là “Pucks”, đóng vai trò chiến lược xung quanh chu vi của con tàu. Các Pucks này được kết nối với hệ thống kiểm soát giám sát và thu thập dữ liệu (SCADA – Supervisory Control And Data Acquisition). Hệ thống SCADA đồng bộ dữ liệu đám mây điểm (Clound Point) từ nhiều cảm biến LiDAR và áp dụng một thuật toán phát hiện đối tượng. Thuật toán phát hiện đối tượng tính toán chính xác khối lượng của bất kỳ đối tượng nào đi qua các trường của cảm biến LiDAR 3D. Mỗi chiếc Puck có 16 laser phát hiện trong một góc nhìn rộng 30 độ so với thân tàu và khoảng cách đến 330 feet.

Hệ thống MOD là một giải pháp tích hợp cho vấn đề khi các hành khách cố đi ra ngoài mạn thuyền – và kết quả của nhiều năm kinh nghiệm của Mechaspin trong thị trường hệ thống không người lái trên mặt đất cho quân đội. Công ty chị của Mechaspin là OpenJaus, công ty phát triển và hỗ trợ các hệ thống không người dùng trong thế giới thực sử dụng ngôn ngữ lập trình JAUS (kiến trúc chung cho các hệ thống không người lái – Joint Architecture for Unmanned Systems)) – đặc biệt là kinh nghiệm liên quan cho ứng dụng MOD. Hy vọng rằng, một ngày nào đó sẽ có thêm những chiếc tàu mới được chế tạo mỗi năm được trang sẵn bị hệ thống MOD của Mechaspin. Và những ngày của những hành khách bị mất trên biển sẽ trở thành chuyện của quá khứ.

Nguồn: Velodynelidar

 

Chất lượng những hình ảnh đầu tiên được chụp bởi vệ tinh FormoSat-5 của Đài Loan.

Đài Loan: Những hình ảnh đầu tiên của vệ tinh FormoSat-5 chụp được có chất lượng không được tốt như mong đợi, chúng bị mờ, độ chi tiết không rõ ràng và có những điểm sáng ở giữa ảnh.

Vệ tinh FormoSat trị giá 186 triệu đô la, và được phóng vào ngày 25/8 bằng tên lửa Falcon do Space X sản xuất với mục đích chụp những hình ảnh đa sắc, đa phổ với độ phân giải ảnh là 2m và 4m tương ứng.

Yu Shiann-jeng, phó giám đốc Tổ chức Vũ trụ Quốc gia NARLabs (NARLabs’ National Space Organization – NSPO), xác nhận rằng những hình ảnh đầu tiên của vệ tinh bị mờ và những khu vực thành thị có quá nhiều điểm sáng. Ông cũng nói thêm NPSO đang cố gắng giải quyết vấn đề này bằng cách điều chỉnh nhiệt độ bên trong và việc hiệu chỉnh lại độ chính xác của ảnh sẽ mất từ 2 đến 3 tháng.

FormoSat-5 là một vệ tinh nhỏ nặng 450 kg có chiều cao 2,8m và đường kính 1,6m

Theo NSPO “Nhiệm vụ của vệ tinh FormoSat-5 là thúc đẩy và chứng minh công nghệ vũ trụ của Đài Loan trong lĩnh vực vệ tinh – viễn thám và tiếp tục cung cấp dữ liệu phục vụ cho những người sử dụng hình ảnh của FormoSat-2 trước đây, góp phần thúc đẩy nghiên cứu khoa học không gian trong nước”. FormoSat-5 rất phù hợp cho ngành công nghệ viễn thám cũng như các nhiệm vụ khoa học không gian.

Nguồn: GeoSpatial World

Esri phát hành cuốn sách thứ 2 về công nghệ GIS

Esri đã phát hành một cuốn sách mới với tựa đề “The ArcGIS Book: 10 Big Ideas about Applying The Science of Where”. Theo Esri, cuốn sách này cung cấp cho các kỹ thuật viên bản đồ những bí quyết và kinh nghiệm áp dụng khoa học công nghệ vào thực tiễn. Ngoài ra, cuốn sách kèm theo nhiều địa chỉ trang web cung cấp tin tức và tài liệu đào tạo cần thiết về sử dụng hệ thống thông tin địa lý dựa trên web (GIS ) để tạo bản đồ, làm việc với ứng dụng, phân tích dữ kiệu không gian,…

Cuốn sách có được cung cấp dưới dạng bản in, dưới dạng PDF và trực tuyến. Cuốn sách giải thích cách sử dụng nền tảng ArcGIS của Esri để quản lý và phân tích dữ liệu và sau đó là hiển thị và chia sẻ thông tin lên bản đồ để có được cái nhìn sâu sắc về dữ liệu. Các nội dung chính của cuốn sách bao gồm bản đồ nền web, các công cụ hiện có, bản đồ tương tác thời gian, GIS 3D, phân tích dữ liệu không gian, hình ảnh và Internet of Things.

Ngoài ra, các phiên bản trực tuyến và PDF của The ArcGIS Book được tích hợp với 10 bài học “Learn ArcGIS” và liên kết đến 250 bản đồ trực tuyến, ứng dụng từ Esri và cộng đồng ArcGIS trên toàn thế giới. Theo Esri, nó cũng bao gồm nhiều tài nguyên học tập điện tử, bao gồm tải phần mềm, video, …

Phiên bản online và PDF của cuốn sách có thể truy cập tại: địa chỉ

Nguồn: geospatial-solutions.com