NVIDIA công thêm các containers trên đám mây GPU của hãng

Trong nỗ lực thúc đẩy siêu máy tính và phát triển AI thông qua GPU, Nvidia cho biết họ đang mở rộng số lượng các container có sẵn trên NVIDIA GPU Cloud – đám mây GPU của hãng.

Ngày 25/6/2018, NVIDIA đã đăng một blog mô tả về 9 containers học sâu mới cho HPC và nâng tổng số container lên 35. Trong đó, đáng chú ý là PGI Compiler nhằm giúp các nhà phát triển xây dựng các ứng dụng HPC sử dụng CPU đa lõi và GPU Tesla của Nvidia. Các trình biên dịch và các công cụ khác trong container có thể được sử dụng để phát triển các ứng dụng hiệu năng cao dựa trên tính toán song song các nhân CUDA với ngôn ngữ Fortran và các ngôn ngữ khác.

Chuyên gia về GPU đang hy vọng container sẽ thay thế cách triển khai thông thường hiện nay. Việc loại bỏ các cài đặt thủ công có nghĩa là người dùng có thể tự kéo container và triển khai ứng dụng trong vài phút so với tiêu tốn nhiều thời gian để tư vấn thiết kế và cài đặt từng phần.

Nvidia cho biết họ đã thử nghiệm GPU trên các máy chủ DGX cùng với bộ vi xử lý đồ họa Nvidia trên đám mây của nhiều nhà cung cấp lớn bao gồm Amazon Web Services, Google và Oracle.

Việc phát triển, cung cấp và khai thác container cho AI và HPC đang được nhiều nhà phát triển quan tâm. Trong số đó, công ty khởi nghiệp sylabs đang phát triển nhanh chóng với mục tiêu đưa công nghệ container HPC tới các doanh nghiệp.

Nguồn: hpcwire.com

Fitbit sử dụng Google Cloud để thúc đẩy đổi mới chăm sóc sức khỏe

Fitbit đã công bố kế hoạch sử dụng Google Cloud trong nỗ lực thúc đẩy đổi mới chăm sóc sức khỏe kỹ thuật số và giành lại thị phần đang phát triển của Apple.

Theo dữ liệu từ tháng trước từ IDC, Apple đã vượt qua Fitbit và Xiaomi để giành vị trí dẫn đầu về thiết bị đeo được. Fitbit đã mua lại nhà sản xuất đồng hồ thông minh Pebble với giá 23 triệu đô la năm ngoái đã giúp cải thiện đáng kể thiết kế và hỗ trợ cho các ứng dụng trên thiết bị đeo được của họ, nhưng bây giờ có vẻ Fitbit đang quay trở lại với sức khỏe.

Fitbit sẽ sử dụng API Cloud Healthcare mới của Google để cho phép truy cập sâu hơn vào hồ sơ sức khỏe sử dụng các tiêu chuẩn mở. Ý tưởng là xây dựng một nền tảng an toàn nơi các nhà cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe trên toàn thế giới có thể truy cập hồ sơ của bệnh nhân và cộng tác khi cần thiết để đảm bảo họ đang cung cấp dịch vụ chăm sóc tốt nhất có thể.

Tiến sĩ Somalee Datta, Giám đốc nghiên cứu của Trường Y khoa Stanford, cho biết:

Chúng tôi đã sử dụng API Google Cloud Genomics trong một thời gian dài và rất vui mừng khi thấy Google Cloud mở rộng các dịch vụ của mình để bao gồm API Cloud Healthcare mới.

Khả năng kết hợp khả năng tương tác với các phân tích có thể mở rộng của Google Cloud sẽ có tác động biến đổi đối với cộng đồng nghiên cứu của chúng tôi. ”

Mục tiêu cuối cùng là nền tảng giúp đào tạo các mô hình học máy có thể giúp chẩn đoán sớm hơn, và điều trị hiệu quả hơn, các vấn đề về sức khỏe.

Gregory Moore MD, Phó chủ tịch chăm sóc sức khỏe tại Google Cloud, giải thích:

“Tại Google, tầm nhìn của chúng tôi là biến đổi cách thông tin sức khỏe được tổ chức và thực hiện hữu ích. Bằng cách cho phép Fitbit kết nối và quản lý dữ liệu sức khỏe và thể chất chính bằng API Google Cloud Healthcare của chúng tôi, chúng tôi đang tiến gần hơn một bước đến mục tiêu này.

Cùng nhau, chúng tôi có cơ hội cung cấp thông tin cập nhật cho các nhà cung cấp, tăng cường khả năng theo dõi và quản lý sức khỏe của bệnh nhân và hướng dẫn điều trị của họ. ”

Fitbit đã quyết định chọn Google làm đối tác không chỉ cho API của mình. Công ty tin rằng Google Cloud sẽ cho phép công ty ‘tăng quy mô nhanh hơn’ và cung cấp khả năng học tập của AI và máy để cung cấp thêm thông tin chi tiết cho người tiêu dùng về cách cải thiện sức khỏe của họ.

Apple có một cộng đồng phát triển rất lớn đằng sau các thiết bị của nó, đó là một cuộc đấu tranh cho các đối thủ cạnh tranh để phù hợp, ngay cả Google với nền tảng Wear OS của nó có một số khó khăn. Fitbit hiện có hầu hết các ứng dụng và tính năng mà người tiêu dùng sử dụng hàng ngày, chẳng hạn như thanh toán, do đó, tập trung vào việc sử dụng nhận dạng thương hiệu của mình để phân biệt các giải pháp sức khỏe mang lại ý nghĩa chiến lược.

“Trong thập kỷ qua, chúng tôi đã xây dựng một nền tảng đáng kinh ngạc như là thương hiệu hàng đầu, giúp hàng triệu người trên thế giới thực hiện những thay đổi hành vi lâu dài nhằm cải thiện sức khỏe và sức khỏe của họ thông qua những trải nghiệm thú vị và hấp dẫn”, James Park, đồng sáng lập và cho biết. Giám đốc điều hành của Fitbit. “Sự hợp tác này sẽ đẩy nhanh tốc độ đổi mới để xác định thế hệ tiếp theo của chăm sóc sức khỏe và thiết bị đeo được.”

Nguồn: Fitbit leverages Google Cloud to accelerate healthcare innovation

Sentinel-1 cảnh báo về ngập lụt ở hòn đảo của người dân tị nạn

Theo những gì LHQ mô tả là cuộc khủng hoảng tị nạn phát triển nhanh nhất thế giới, gần như 700 000 người Hồi giáo Rohingya đã di chuyển từ Myanmar sang nước láng giềng Bangladesh kể từ tháng 8 năm 2017. Với chính phủ Bangladesh đề xuất một hòn đảo nằm ở vị trí địa hình thấp dễ bị tổn thương như một địa điểm di dời cho hàng ngàn người dân tị nạn này, dữ liệu Sentinel-1 đã cho thấy vị trí này không phù hợp như thế nào.

 

Trong khi người Rohingya phải đối mặt với sự đàn áp trong nhiều thập kỉ, cuộc di cư hàng loạt gần đây được đổ lỗi cho những tội ác quy mô lớn do quân đội Myanmar gây ra.

 

Không chỉ có tốc độ di chuyển đến Bangladesh mà đây là cuộc khủng hoảng tị nạn phát triển nhanh nhất trên thế giới, nhưng sự tập trung của những người di tản hiện nay ở Bazan Cox của Bangladesh là một trong những nơi đông nhất trên thế giới.

 

Ngay cả trước khi cuộc khủng hoảng, Bangladesh đã lưu giữ 200 000 Rohingya từ Myanmar. Đối với một đất nước đã phải vật lộn để đối phó với những thách thức của riêng mình, điều này đã biến thành một bi kịch nhân đạo rất lớn.

 

Tuyệt vọng tìm ra giải pháp, chính phủ Bangladesh đã được nhắc nhở, thực hiện một kế hoạch bị phê phán nhiều là di chuyển hàng ngàn người tị nạn đến Thengar Char, một trong những hòn đảo không có người ở và không ổn định ở Vịnh Bengal.

Khu vực này đặc biệt dễ bị lốc xoáy, với các khu vực ven biển và các đảo có luôn ở trong tình trạng nguy hiểm cao nhất. Một số đảo gần đó có dải thủy triều cao tới 6m, có nghĩa là chúng có nguy cơ bị ngập hoàn toàn.

 

Không kể đến lốc xoáy, khu vực này thường bị ngập bởi lượng mưa lớn trong gió mùa Nam Á, kéo dài từ tháng 6 đến tháng 10.

 

Thông tin từ vệ tinh thường được sử dụng trong các cuộc khủng hoảng nhân đạo để lập bản đồ, ví dụ, mức độ của các trại và các khu định cư tạm thời khác.

 

Tuy nhiên, trong trường hợp này, các dịch vụ dựa trên quan sát mặt đất dựa trên Nhu cầu thông tin động trong dự án Hành động nhân đạo đã sử dụng dữ liệu từ nhiệm vụ radar Copernicus Sentinel-1 để chỉ ra chính xác vị trí Char Thengar là vô cùng bấp bênh.

 

Andreas Braun đến từ Đại học Tübingen của Đức cho biết: “Cùng với sử dụng dữ liệu từ Sentinel-1, chúng tôi cũng sử dụng dữ liệu từ các vệ tinh ERS và Envisat cũ của ESA để tìm ra sự thay đổi của kích thước hòn đảo kể từ năm 1991.

 

“Dữ liệu này đã chỉ ra rằng tập hợp các hòn đảo này chỉ có ở đó từ năm 2009, và được hình thành từ đất đá và bùn rửa trôi từ dãy Himalaya vào vịnh Bengal. Chúng tôi cũng đã tính toán hòn đảo đã từng lớn như thế nào, đã từng nhỏ như thế nào và lớn như thế nào là trung bình.

 

“Quan trọng hơn, chúng tôi có thể báo cáo rằng kể từ khi Sentinel-1 bắt đầu hoạt động vào năm 2014, hòn đảo, hiện tại khoảng 60 km vuông, đã bị ngập lụt nhiều lần và vào lúc nghiêm trọng nhất, diện tích đất đã giảm xuống còn 39 km vuông.”

 

Khái niệm đặt những người dễ bị tổn thương trên một hòn đảo khắc nghiệt mà không có cơ sở hạ tầng hiện có và mất hai giờ đi bằng thuyền từ đất liền là nghi vấn rõ ràng, nhưng nhờ Sentinel-1, chính quyền có bằng chứng vững chắc về nguy cơ lũ lụt.

 

Điều này nhìn thấy được cho dù chính phủ Bangladesh vẫn sẽ tiếp tục thực hiện các kế hoạch của họ và mặc dù vậy, các cơ sở hạ tầng đã bắt đầu được xây dựng rõ ràng.

Nguồn: www.esa.int

Nga triển khai mạng 5G trong thời gian diễn ra World Cup


Người hâm mộ có thể xem trận đấu giữa Morocco và Iran trực tiếp qua kính VR nhờ kết nối 5G.
Thời gian gần đây, các sự kiện thể thao lớn đã biến thành nơi để triển khai thí điểm công nghệ 5G. Thế vận hội mùa đông ở Hàn Quốc năm ngoái đã sử dụng mạng 5G quy mô lớn đầu tiên, và đầu năm nay ở Verizon sự kiện Super Bowl đã được phát sóng thông qua công nghệ VR sử dụng mạng 5G.
Vào ngày 15 tháng 6, trận đấu đầu tiên diễn ra tại Sân vận động Krestovsky ở St. Petersburg sẽ được phát trực tuyến tới người xem trong “khu vực phủ sóng mạng 5G” ở Moscow, cách khoảng 600 km.
Việc tổ chức World Cup đã thúc đẩy Nga đẩy mạnh nỗ lực triển khai công nghệ mạng 5G của mình. Nga có kế hoạch để khởi động một loạt các mạng lưới thí điểm vào năm tới và sẽ hoạt động như các “điểm nóng”. Cơ sở hạ tầng 5G của Nga đang rất phát triển, nhưng nó vẫn đứng sau Mỹ và Hàn Quốc. Nga dự kiến ​​sẽ ra mắt các mạng thương mại vào cuối năm 2018 và 2019.

Nguồn: Russia is using the World Cup to kick off its 5G efforts

ABI Research: Áp dụng phân tích dữ liệu của các thiết bị đeo để bổ sung thêm lợi ích

Việc áp dụng phân tích dữ liệu cho các thiết bị đeo được thông thường sẽ mang lại nhiều lợi ích hơn nữa cho công nghệ và cung cấp cho người dùng các thông tin có thể hành động, theo ABI Research.

Báo cáo của ABI Research ‘Phân tích dữ liệu của các thiết bị đeo và các mô hình kinh doanh’ cho rằng có một số cách mà trong đó phân tích dữ liệu có thể cung cấp thêm lợi ích và lớp bổ sung cho công ty, chuyên gia chăm sóc sức khỏe và người tiêu dùng.

Một số ví dụ bao gồm cung cấp các chuyên gia chăm sóc sức khỏe với thông tin dự đoán về bệnh nhân nào có thể cần hỗ trợ ngay lập tức; và cung cấp cho người tiêu dùng, vận động viên và công nhân một cái nhìn sâu sắc về thể lực của họ. Những khả năng phân tích này được cung cấp bởi một số công ty bao gồm Catapult Sports, Emu Analytics, Sentrian, và Vivametrica.

Nó đã được dự báo bởi ABI Research rằng doanh thu từ dữ liệu có thể đeo và phân tích dịch vụ sẽ vượt mốc 838 triệu USD vào năm 2022, với tốc độ CAGR trên 27%, từ giá trị hiện tại hơn 247 triệu USD.

Stephanie Lawrence, nhà phân tích nghiên cứu tại ABI Research, cho biết:

“Các thiết bị đeo được từ lâu đã tìm đường vào cuộc sống của người tiêu dùng và doanh nghiệp, cung cấp nhiều tính năng khác nhau như theo dõi hoạt động, giao tiếp, tiếp cận thông tin và giám sát chăm sóc sức khỏe quan trọng. Phân tích dữ liệu bổ sung thêm lợi ích cho công nghệ, cung cấp cho người dùng và công ty thông tin có thể hành động dựa trên dữ liệu mà các thiết bị thu thập, tích hợp sâu thông qua thị trường ngày càng kết nối.”

Ở những nơi khác, một nghiên cứu trực tuyến được Researchscape International tiến hành cho thấy 40% cư dân trưởng thành của Mỹ đã theo dõi hiệu suất thể chất hàng ngày của họ thông qua việc sử dụng thiết bị đeo được. Trong số tất cả những người có thiết bị đeo được, 51% sử dụng thiết bị ít nhất một lần mỗi ngày và 70% sử dụng thiết bị hàng ngày hoặc hàng tuần.

Nghiên cứu cho thấy 39% người được hỏi sử dụng thiết bị để theo dõi số bước đi, 36% để theo dõi lượng calo bị đốt cháy, 28% cho theo dõi khoảng cách và 25% cho việc theo dõi chất lượng giấc ngủ.

Nguồn: ABI Research: Applying data analytics to wearables provides further benefit

Hướng tới các Hiệp định về Biến đổi khí hậu – Phân tích các Công ước khung toàn cầu

“Biến đổi hóa học khí quyển dẫn đến biến đổi khí hậu”

Bài viết này nhằm mục đích theo dõi tiến trình thực hiện của các công ước khác nhau trong khung toàn cầu để giải quyết sự biến đổi khí hậu bao gồm cả sự thành công và thất bại của chúng. Bài viết cũng nhấn mạnh sự phức tạp liên quan đến việc triển khai một công ước ở quy mô toàn cầu. Cuối cùng, bài viết đã đưa ra kết luận về 2 khái niệm thương lượng riêng biệt mà có thể đạt được mục đích của khung biến đổi khí hậu toàn cầu.

Biến đổi khí hậu được công nhận là một trong những đe dọa nguy hiểm nhất của thế kỷ 21, dẫn đến một loạt các mối đe dọa đến môi trường, hệ sinh thái và xã hội. Hiện trạng của nó không phải lúc nào cũng giống như bây giờ. Trước đó có nhiều các quan điểm chính trị gắn liền với nó và nó được tuyên bố thái quá rằng khoa học biến đổi khí hậu là một trò bịp bợm. Tuy nhiên, sau khi nhiều chứng cứ và các cảnh báo được đưa ra bởi các nhà khoa học, hội nghị thượng đỉnh đầu tiên về môi trường được tổ chức vào năm 1972 tại Thụy Điển. Hội nghị này mang đến một tầm nhìn mới cho nhiều chính phủ, khiến họ bước đầu nhìn nhận vấn đề này ở quy mô toàn cầu. Năm 1979 đánh dấu sự khởi đầu của nhiều chuyên gia họp lại với nhau để giải quyết cuộc khủng hoảng khí hậu, được thiết lập là vấn đề khoa học chưa định lượng được.

Nhận ra những tổn thất nghiêm trọng liên quan đến hóa học khí quyển và khí nhà kín thúc đẩy thực hiện các nghiên cứu khoa học nhằm hiểu rõ hơn về sự thay đổi khí hậu do con người gây ra. Điều này dẫn đến việc thành lập một cơ quan khoa học vào năm 1988 được gọi là Ủy ban đàm phán Liên Chính phủ về Biến đổi khí hậu (Intergovernmental Panel on Climate Change – IPCC) để đánh giá tiến trình đối phó và tóm tắt các hoạch định chính sách về sự biến đổi khí hậu do con người gây ra.

Trong vòng đánh giá đầu tiên (AR1), báo cáo được công bố vào năm 1990, IPCC nhấn mạnh biến đổi khí hậu toàn cầu là có thật và liệt kê những tổn thất có thể xảy ra đối với con người trong tương lai gần. Do đó, tại thời điểm quan trọng này, để ngăn chặn nguy cơ nghiêm trọng này xảy ra, 3 hiệp ước đã được ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh Trái đất, được tổ chức tại Rio de Janeiro, 1992. Đầu tiên là Công ước khung của LHQ về Biến đổi khí hậu (United Nations Framework Convention on Climate Change  – UNFCCC), sau đó là Công ước Liên hợp quốc về đa dạng sinh học (UN Convention on Biological Diversity – UNCBD), và cuối cùng là Công ước LHQ về chống sa mạc hóa (UN Convention to Combat Desertification – UNCCD). Công ước khung của LHQ về BĐKH, được thành lập vào năm 1992 bởi các chính phủ và có hiệu lực vào năm 1994 sau khi phê chuẩn các quốc gia thành viên. Theo Công ước này, các thành viên có nghĩa vụ phải họp hàng năm, được gọi là Hội nghị các bên (COP) để thảo luận thêm về tiến trình thực hiện. Hội nghị các bên lần đầu tiên được tổ chức tại Berlin vào năm 1995.

COP3 Kyoto – Nghị định thư đầu tiên

Ý tưởng chính của Hội nghị các bên lần thứ 3 là thông qua các nghị định đầu tiên theo công ước này, được gọi là Nghị định thư Kyoto, 1997. Mục tiêu chính của nghị định này là ổn định nồng độ của 6 loại khí nhà kính trong khí quyển do đóng góp của con người. Các nước thuộc Phụ lục 1 sẽ thực hiện đầu tiên do họ là những nước đóng góp chính và đặt hành tinh này vào tình trạng nguy hiểm. Trong Nghị định thư này, một tiêu chuẩn về ngoại giao toàn cầu cũng được áp dụng gọi là Mục tiêu chung nhưng trách nhiệm khác biệt (Common But Differentiated Responsibilities – CBDR), nghĩa là mục tiêu chung cho tất cả các nước nhưng trách nhiệm khác biệt do sự khác biệt lớn về thu nhập, tài nguyên, công nghệ… giữa các nước đã phát triển (Phụ lục 1) và các nước đang phát triển (không thuộc Phụ lục 1). Năm 1997, Nghị định thư Kyoto đã được thông qua với tầm nhìn đến năm 2012 để giảm phát thải khí nhà kính do hoạt động của con người. Các nước thuộc phụ lục 1 có trách nhiệm toàn bộ trong việc giảm thiểu phát thải 5% cho giai đoạn 2008 – 2012 so với nồng độ năm cơ sở 1990.

Ngược lại, những nước không thuộc phụ lục 1, công ước giới thiệu một loạt các cơ chế gọi là Cơ chế phát triển sạch (Clean Development Mechanism ) mà cho phép các nước này là một phần (không bắt buộc) của công ước và tự nguyện giảm lượng phát thải khí nhà kính nếu các quốc gia ở Phụ lục 1 trả tiền cho họ. Đây là một thỏa thuận khá phức tạp. Sau đó, Mỹ – đất nước sử dụng nhiên liệu hóa thạch lớn nhất vào thời điểm đó và được liệt kê trong Phụ lục 1, đã thông qua một nghị quyết được gọi là Nghị quyết Byrd-Hagel. Thượng viện Mỹ đã không nghĩ rằng điều này là quyết định có lợi cho họ để họ ký kết giao ước này, nghị quyết này nói rằng:

“Mỹ không nên là người ký kết bất kỳ nghị định thư nào hay bất kỳ thỏa thuận nào khác về Công ước khung của LHQ về biến đổi khí hậu năm 1992 tại các cuộc đàm phán ở Kyoto hoặc các nơi khác, mà sẽ cam kết thực hiện các hành động để hạn chế hoặc giảm thiểu khí nhà kính trừ khi công ước mới cũng ủy thác các cam kết cụ thể theo lịch trình cho các nước đang phát triển.”                           

(Nguồn: Nghị quyết Byrd-Hagel)

Các nước thuộc Phụ lục 1 đã có thể giảm mức nồng độ khí nhà kính xuống 5% chủ yếu là do sự đình trệ trong các hoạt động đốt cháy nhiên liệu hóa thạch và trong công nghiệp nguyên nhân từ suy thoái năm 2008. Tuy nhiên, nhìn chung Nghị định thư Kyoto về cơ bản không thể thay đổi hướng đi và thất bại trong nhiều phương diện; để giải quyết nghiêm túc vấn đề biến đổi khí hậu do con người gây ra, đạt được các mục tiêu của nó theo các chỉ tiêu và không thể kênh hóa bất kỳ khung hỗ trợ cụ thể nào cho tương lai.

Những thất bại của nghị định thư Kyoto là,

  • Không bao gồm các nước không phải phụ lục 1 trong hành động với các ràng buộc pháp lý, điều này sẽ thúc đẩy họ giảm tỷ lệ phát thải khí nhà kính của họ ở bất kỳ mức độ nào có thể. Thay vào đó, chúng được gộp vào Cơ chế Phát triển Sạch, nơi các nước Phụ lục 1 phải chịu chi phí giảm phát thải.
  • Không xác định một hệ thống số liệu thích hợp, cho dù, để đo lường hiệu quả của từng loại khí nhà kính hoặc tương đương với mức giảm 5%. Sau đó, khái niệm Carbon dioxide tương đương đã được giới thiệu để đo lường tác động của từng khí nhà kính so với tác động của phân tử carbon dioxide.

Kyoto tới Copenhagen – Thực hiện chung để tiếp cận tốt hơn

Với việc thực hiện các giao ước sắp hết hạn và một số thất bại của nghị định thư Kyoto, trọng tâm của hội nghị các bên lần thứ 15 (COP15) được tổ chức vào năm 2009 tạo Copenhage. Hội nghị thu hút được sự tham gia lớn nhất về BĐKH kể từ hội nghị thượng đỉnh Rio năm 1992, với 115 người đứng đầu các tiểu bang và chính phủ đồng ý làm việc cùng nhau để thiết lập một phương pháp tiếp cận tích hợp mới. Một thỏa thuận chung là triển vọng tài trợ hàng tỉ đô la mỗi năm cho cả các nước phát triển và đang phát triển để giảm phát thải khí nhà kính và áp dụng các chiến lược thích nghi với BĐKH đang diễn ra. Tất cả đã được nói nhiều hơn thực hiện, các cuộc đàm phán không thể thực hiện như nghị định thư Kyoto. Tuy nhiên, cuộc họp này cũng mang những ý nghĩa quan trọng,

  • Để đạt được thỏa thuận giữa các nước thuộc và không thuộc Phụ lục 1, cùng nhau làm việc để giải quyết vấn đề này với sự phân chia trách nhiệm công bằng và hiệu quả
  • Dựa trên các kết quả nghiên cứu khoa học, một giới hạn đã được quyết định là không tăng nhiệt độ toàn cầu thêm 2 độ C hoặc 3.6 độ F và kết luận rằng nếu chúng ta vượt quá giới hạn này thì sẽ rất nguy hiểm cho sự sống còn của cả nhân loại

Sau cuộc họp tại Copenhagen, một số cuộc họp đã diễn ra, hội nghị các bên lần thứ 16 tại Mexico, lần thứ 17 tại Durban, lần thứ 18 tại Doha, nhưng không có bất cứ kết luận nào trong việc đưa ra một tuyên bố và thỏa thuận cụ thể nào. Hội nghị các bên lần thứ 19 ở Warsan đã đưa ra việc phá rừng không chỉ gây thiệt hại về nguồn tài nguyên bản thân chúng mà còn gây thiệt hại tới môi trường sống tự nhiên của các loài động vật. Các nhà khoa học cũng cung cấp bằng chứng cho thấy nạn phá rừng dẫn đến việc gia tăng nồng độ khí CO2 trong khí quyển do đó làm tăng nồng độ khí nhà kính. Một thỏa thuận đã đạt được để thúc đẩy trồng rừng để lưu trữ sinh học CO2 trong các cây xung quanh chương trình được gọi là Nỗ lực giảm phát thải từ mất rừng và suy thoái rừng (REDD+). Hội nghị các bên lần thứ 20 được tổ chức tại Lima vào năm 2014 đã chứng kiến sự phát triển dự thảo được thông qua tại Hội nghị các bên lần thứ 21 tại Paris vào năm 2015.

Paris – Hi vọng tuyệt vời

Hội nghị các bên lần thứ 21 được tổ chức vào năm 2015 tại Paris, dẫn đến thỏa thuận khí hậu toàn cầu được gọi là Hiệp định Paris ký kết giữa 196 nước với UNFCCC. Đây là một nỗ lực đáng kể đối với các nền kinh tế khác nhau trên toàn cầu, chính trị quốc tế và khoa học khí tượng. Điều này rất quan trọng vì nó thúc đẩy các nền kinh tế lớn chuyển dần sang nền kinh tế phát thải thấp. Mục tiêu chính của thỏa thuận này là thiết lập một khuôn khổ vững chắc thúc đấy hành động tập thể về BĐKH đối với những nước thuộc và không thuộc Phụ lục 1.  Một cơ chế mới, Hệ thống bù trừ phát thải tự nguyện, cũng được giới thiệu trong thỏa thuận này thay thế Cơ chế phát triển sạch. Hiệp định Paris sẽ có hiệu lực vào năm 2020 và sẽ thay thế Nghị định thư Kyoto năm 1997 như là luật quốc tế mới về giảm phát thải toàn cầu. Hội nghị các bên lần thứ 22 tại Morocco vào năm 2016 và hội nghị lần thứ 23 tại Đức đã lên kế hoạch cho một loạt các quyết định được thực thi cho Hiệp định Paris. Quan trọng nhất là, Mỹ, dưới sự quản lý của Trump đã quyết định chấm dứt không tham gia bất cứ hành động nào của thỏa thuận Paris về biến đổi khí hậu năm 2015 vì điều này có thể đẩy nền kinh tế của Mỹ sẽ cản trở kinh doanh và đẩy nền kinh tế của nước này xuống dốc.

Một tình huống tương tự đã xảy ra trước đây khi George W. Bush, tổng thống của Mỹ mới thắng cử vào năm 2001, đã từ chối tất cả các hoạt động nào để thực hiện Nghị định thư Kyoto. Do sự rút lui này, một khởi đầu khủng khiếp đối với UNFCCC đã có ảnh hưởng lớn đến việc thành lập Nghị định thư Kyoto. Tuy nhiên, với Điều 28 đã ký theo Thỏa thuận Paris, việc rút lại hiệu lực của Hoa Kỳ khỏi thỏa thuận sẽ không thể thực hiện cho đến tháng 11 năm 2020 và cho đến lúc đó họ vẫn phải tiếp tục gửi báo cáo khí thải cho LHQ.

Mô phỏng bối cảnh tương lai dựa trên kịch bản hiện tại

Kể từ khi động cơ hơi nước được James Watt giới thiệu với thế giới, đã có một xu hướng ngày càng tăng trong sự gia tăng do việc đốt các nhiên liệu hóa thạch đã làm suy thoái hóa học khí quyển. Biểu đồ được phát triển bởi Peters và cộng sự, năm 2012 theo Dự án Carbon toàn cầu cho thấy, tính đến năm 2018, có khoảng 12 đến 13 tỷ tấn khí thải carbon phát thải ra toàn thế giới (Hình 1). Con số này cũng minh họa các phát thải quan trắc được và kịch bản phát thải mô phỏng ở quy mô toàn cầu. Trục thẳng đứng đại diện cho carbon phát thải vào khí quyển tính theo tỷ tấn trong khi trục ngang biểu thị thời gian. Đường cong màu đỏ biểu thị đường cong BAU (Kinh doanh theo thông thường) biểu thị một trong những kịch bản cao nhất được xác định bởi IPCC khi phát thải tiếp tục tăng cùng các nền kinh tế thế giới tiếp tục tăng trưởng.

Hình 1. Lượng phát thải quan trắc (đường chấm đen) và kịch bản phát thải tương lai theo đường cong Kinh doanh theo thông thường – Business as usual (BAU) (đường cong màu đỏ) (Nguồn: Dự án Carbon 2012).

Đốt một lượng lớn nhiên liệu hóa thạch, khai thác nhiều hơn khí thiên nhiên, đốt dầu, phá rừng và thay đổi sử dụng đất dẫn đến mức độ phát thải khí nhà kính cao hơn. Khi những dự đoán này được đưa vào các mô hình khí hậu, chúng phác họa một bức tranh đáng sợ hơn nhiều so với những gì người ta có thể tưởng tượng. Nếu xu hướng này tiếp tục, nhiệt độ sẽ tăng lên từ 4 ° C đến 6 ° C (đường cong màu đỏ). Điều quan trọng là đường cong này có thể được thay đổi (đường cong màu xanh) nếu cách giảm lượng phát thải xuống dưới 12 đến 15 tỷ tấn bằng cách ổn định lượng khí thải carbon trước năm 2070 để duy trì sự sống trên Trái đất trong tương lai. Một điều quan trọng cần hiểu là biểu đồ này biểu thị lượng phát thải Carbon nhưng không phải là lượng khí thải carbon dioxide. Và khối lượng carbon dioxide với mỗi nguyên tử carbon thì nặng hơn nguyên tử carbon đơn. Nói cách khác, nếu chúng ta phát ra một tấn carbon trong khí quyển, điều đó có nghĩa là chúng ta đã thải ra nhiều hơn khí carbon dioxide vào bầu khí quyển.

Tại sao xảy ra tình trạng tê liệt khi thực hiện các hiệp định?

Trong thời gian tới, các nền kinh tế thế giới được dự đoán sẽ tăng trưởng nhanh hơn, như Trung Quốc sẽ trở thành một nền kinh tế lớn mạnh hơn và sẽ tiếp tục phát thải lượng khí thải carbon ngày càng tăng trong khí quyển, Ấn Độ cũng đang tăng trưởng nhanh. Để bình thường hóa hiệu quả của các hoạt động của con người đối với khí hậu, người đứng đầu các chính phủ khác nhau đã bước vào giai đoạn đàm phán. Tuy nhiên, bản chất của quá trình đàm phán và quá trình giải quyết vấn đề giữa các chính phủ ký kết theo UNFCCC thực sự ảm đạm. Có 4 lý do giải thích hoặc các yếu tố chứng minh rằng sự phức tạp đến mức cực đoan có liên quan đến việc đạt được một thỏa thuận về biến đổi khí hậu nhiều hơn so với bất kỳ thỏa thuận nào khác.

Quy trình dài hạn – Các quy trình liên quan đến BĐKH không phải là ngay lập tức mà là dài hạn vì nó tham gia vào khái niệm chuyển đổi các nền kinh tế thế giới, hệ thống năng lượng và công nghệ được triển khai tốt.

Chi phí hiện tại cho lợi nhuận trong tương lai – Chi phí hành động được thực hiện liên tục trong 2 đến 3 thập kỉ tới có khả năng mang lại nhiều lợi ích sau này. Không có sự thỏa mãn ngay lập tức, điều này chắc chắn không phải là điều đơn giản nhất để các chính trị gia hay chính phủ điều chỉnh.

Chi phí và lợi nhuận mơ hồ – Độ lớn của sự không chắc chắn liên quan biện pháp thích ứng đến công nghệ mới hoặc đầu tư về chí phí trong tương lai hoặc các biến cố khí hậu không chắc chắn, thực sự cao. Lý do là thực tế các biện pháp thích ứng này phải được thực hiện ở quy mô toàn cầu.

Bất bình đẳng bất đối xứng – Không có gì tương đương về thứ hạng hoặc vị trí của các nước ký kết theo UNFCCC. Có sự bất bình đẳng giữa họ về sự giàu có, quyền lực, công nghệ và quan trọng nhất là quyền sở hữu tài nguyên. Điều này dẫn đến sự tham gia không phù hợp của nhiều quốc gia nhỏ, những người biết rằng ít nhất họ phải làm gì với sự thay đổi khí hậu do con người gây ra.

Để ổn định lượng phát thải của khí nhà kính là một thách thức công nghệ, xã hội và chính trị đầu tiên không phải ở cấp độ khu vực mà ở cấp độ toàn cầu. Đó là một nhiệm vụ rất phức tạp và khó khăn để thực hiện. Đó là vấn đề khó khăn nhất hoặc hoàn toàn là động lực rất phức tạp cho nhân loại để đối phó khi nó đạt đến các khái niệm cốt lõi mang lại một sự thay đổi trong hệ thống quyền lực có thể mang lại một sự thay đổi trong các thuộc tính hành vi của cuộc sống và thích ứng với công nghệ mới. Sự không chắc chắn với quá nhiều thay đổi tiền tệ và xã hội đang diễn ra, cho phép các nghi ngờ được phóng đại có thể được gọi là tê liệt nếu tất cả đều bị thiếu hụt. Vậy, cách thức đàm phán để ổn định lượng phát thải khí nhà kính là gì, trong các điều luật của một hiệp định được cả hai nước Phụ lục 1 và Phụ lục 1 của thế giới chấp nhận? Câu trả lời đi kèm với 2 khái niệm thương lượng riêng biệt, tức là hiệu quả kinh tế và tính công bằng tài chính. Điều đó sẽ là không ngoan nếu các nền kinh tế phát thải cao thiết lập xu hướng bằng cách chuyển đổi phương pháp sản xuất năng lượng chính của họ sang công nghệ tái tạo đồng thời làm giảm lượng khí thải carbon trong khí quyển.

Nguồn: www.geospatialworld.net

Ủy ban châu Âu đề xuất 9,2 tỷ euro cho HPC, AI và công nghệ số chiến lược

Trong chiến lược “Digital Single Market”,  6 tháng 6 năm 2018, Ủy ban châu Âu đã đề xuất một khoản đầu tư trị giá 9,2 tỷ euro (10,8 tỷ USD) nhằm tăng khả năng cạnh tranh quốc tế của EU. Khoản đầu tư lớn này, nếu được phê duyệt, sẽ là một thành phần chính của ngân sách dài hạn 2021-2017 của Liên minh châu Âu. Khoản đầu tư được đề xuất sẽ tài trợ 5 lĩnh vực chính:

  1. 2,7 tỷ euro (3,2 tỷ USD) để xây dựng và tăng cường năng lực siêu máy tính trên toàn châu Âu.
  2. 2,5 tỷ euro ($ 2,9B USD) cho ứng dụng AI trong phát triển kinh tế châu Âu.
  3. 2 tỷ euro ($ 2,4B USD) cho các nỗ lực bảo mật và an ninh mạng.
  4. 700 triệu euro ($ 824M USD) cho đào tạo kỹ năng công nghệ thông tin.
  5. 1,3 tỷ euro (1,5 tỷ USD) để triển khai các dịch vụ công cộng và các hoạt động hành chính kỹ thuật số.

Đối với siêu máy tính, quỹ sẽ hỗ trợ các nỗ lực để triển khai siêu máy tính và hạ tầng cơ sở dữ liệu cấp độ thế giới với khả năng tính toán (một tỷ tỷ hoặc 10^18 phép tính mỗi giây) vào 2022/2023 và cung cấp các dịch vụ tính toán vào 2026/2027 nhằm xây dựng công nghệ độc lập và cạnh tranh.

Mariya Gabriel, Ủy viên cho nền kinh tế kỹ thuật số và an ninh nói: Chúng tôi sẽ đầu tư vào các công nghệ kỹ thuật số chiến lược như trí thông minh nhân tạo, tính toán hiệu suất cao và an ninh mạng. Một trong những mục tiêu của chương trình là đầu tư vào đào tạo nhân lực có kỹ năng công nghệ cao để truy cập và sử dụng các công nghệ mới nhất.

Nguồn: hpcwire.com

 

Oculus triển khai thử nghiệm “xã hội thực tế ảo”

Oculus – công ty thuộc sở hữu của Facebook đã tiên phong triển khai thử nghiệm xã hội thực tế ảo.

Khoảng 9.000 người đã theo dõi ca sĩ người Úc Vance Joy tại Red Rocks Amphitheatre ở Colorado tối qua, nhưng thực tế buổi biễu diễn đã được thu hút được số lượng theo dõi của nhiều khán giả hơn. Đó là vì buổi hòa nhạc của Joy là buổi hòa nhạc đầu tiên được phát sóng bởi ứng dụng VR, thông qua ứng dụng Oculus Venues.

Các chương trình phát sóng trực tiếp trước đây sử dụng thực tế ảo – VR chỉ cho phép các đám đông với quy mô nhỏ tương tác. Buổi hòa nhạc lần này đánh dấu lần đầu tiên số lượng lớn người xem của một sự kiện trực tiếp có thể tham gia và trò chuyện với số lượng lớn những người tham dự sự kiện thông qua VR khác.

Đã có một số vấn đề kết nối trong quá trình buổi biểu diễn, nhưng đối với hầu hết các phần hệ thống đã hoạt động như kế hoạch. Những người tham dự có thể trò chuyện với những người hàng ghế ngồi ảo khác và có thể hát theo giai điệu âm nhạc. Nhưng việc sử dụng VR cho những sự kiện trực tiếp tương tự như thế này vẫn còn hạn chế do chưa truyền đạt hết được cảm xúc của khán giả.

Nguồn: Oculus just kicked off an experiment in social VR

National Grid sử dụng Lidar cho giám sát mạng lưới ống dẫn Gas

National Grid, một công ty điện và khí đa quốc gia của Anh, đã thông báo họ đang tiến hành một chương trình thử nghiệm sử dụng dữ liệu quét laser để nâng cao hiệu quả về an toàn và hoạt động trên toàn mạng lưới của mình. Trong hệ thống truyền dẫn khí của Anh, sẽ sử dụng công nghệ Lidar để giám sát địa hình xung quanh đường ống, bằng các cuộc khảo sát trên không.

Hợp tác với NM Group, dự án tài trợ cho Network Innovation Allowance (NIA) sẽ tiến hành nhiều lần quét Lidar qua phần đường ống dẫn khí. Dữ liệu 3D chính xác sẽ được National Grid sử dụng để xác định chuyển động của trái đất và cập nhật thông tin hệ thống của mình. Ngoài ra, bằng cách so sánh kết quả qua các lần quyét sẽ xác định bất kỳ thay đổi lớn nào trong khu vực dự án. Điều này sẽ giúp xác định các mối lo ngại về an toàn và phát hiện bất kỳ sự can thiệp của bên thứ ba nào vào mạng lưới.

Quentin Mabbutt, giám đốc phân phối đổi mới tại National Grid, cho rằng các khảo sát của Lidar mang lại tiềm năng đáng kể cho công ty để thống nhất nhiều tập dữ liệu toàn vẹn tài sản đường ống trong một hệ thống thoonhs nhất. Làm việc cùng với Ian Crompton của Trung tâm bảo trì đường ống của National Grid đang cung cấp chương trình với một bộ dữ liệu phong phú về đường bộ giúp tăng cường sự hiểu biết về kết quả Lidar địa hình thu được cho đến nay.

Kevin Jacobs, giám đốc điều hành tại NM Group, cho biết dự án sẽ mang lại một số lợi ích chính, chẳng hạn như giảm chi phí kiểm tra đi bộ và cung cấp thêm thông tin về điều kiện mạng lưới. Sử dụng phần mềm 3D của NM Group, thông tin này có thể dễ dàng truy cập và dữ liệu sẽ thống nhất. National Grid đang dẫn đầu với công nghệ này.

Dự án dự kiến sẽ cung cấp các cải tiến hiệu quả và an toàn trên mạng lưới, nếu thành công, có thể cung cấp một cách tiếp cận mới để giám sát toàn vẹn đường ống dẫn Gas.

Nguồn: GIM International

Ngôi nhà in 3D “đầu tiên trên thế giới” ở Eindhoven: Một con hướng đi khác trong việc xây dựng thành phố thông minh?

Hà Lan sẽ sớm hoàn thiện ngôi nhà đâu tiên trong số năm ngôi nhà bê tông được in 3D theo kế hoạch tại thành phố Eindhoven, như một phần của dự án Milestone.

Khu đô thị Eindhoven, Đại học Công nghệ Eindhoven, nhà thầu Van Wijnen, quản lý bất động sản Vesteda, công ty vật liệu Saint Gobain-Weber Beamix và công ty kỹ thuật Witteveen + Bos là các đối tác trong dự án.

Các ngôi nhà có hình dạng bất thường và thiết kế của chúng được dựa trên các khối thất thường trong một cảnh quan cây xanh. Thiết kế này nhằm mục đích ở nâng cao chất lượng và tính bền vững.

Thành phố Eindhoven khá nổi tiếng với công nghệ in 3D, như nhóm nghiên cứu của giáo sư công nghệ bê tông Theo Salet và máy in bê tông của nó là những yếu tố quan trọng. Hơn nữa, nhóm gần đây đã hoàn thiện cây cầu bê tông in 3D đầu tiên trên thế giới cho những người đi xe đạp ở làng Gemert.

Xét về những gì phát triển này có thể có ý nghĩa cho các thành phố thông minh, Katie Pyzyk, viết cho Smart Cities Dive vào tháng Tư, khám phá tiềm năng, trích dẫn một trạm xe buýt ở Trung Quốc được in 3D từ vật liệu tái chế. “Khái niệm này có khả năng làm thay đổi cách thức các thành phố xem chất thải và tái chế nếu chúng có thể phễu một số vật liệu như nhựa vào các thị trường mới”, Pyzyk viết. “Công nghệ này cũng đã được đề xuất để duy trì và củng cố cơ sở hạ tầng hiện tại bằng cách chỉ in các vật liệu cần thiết để sửa chữa các yếu tố như xây, đường sắt, hoặc thậm chí là ổ gà trên đường.”

Ở những nơi khác, EOS – một nhà cung cấp công nghệ nổi tiếng trong lĩnh vực in 3D công nghiệp kim loại và polyme – đã tham gia vào thế giới MindSphere e.V. (hiệp hội đã đăng ký) khuyến khích IoT OS MindSphere dựa trên đám mây. Công ty là một trong những nhà cung cấp giải pháp in 3D đầu tiên trong tổ chức này, bao gồm các công ty như Siemens, Festo và Kuka.

Nguồn: ‘World’s first’ 3D printed houses to be built in Eindhoven: Another route to smarter cities?