Windy: Bản đồ thời tiết tương tác thời gian thực

Sẽ rất tuyệt vời nếu bản đồ thời tiết không chỉ cập nhật thông tin thời tiết thông thường mà còn hiển thị cho chúng ta các thông tin khác như tầng ôzôn, tốc độ gió, tình trạng ô nhiễm và thậm chí chỉ số Cape Index phức tạp bằng một cú nhấp chuột duy nhất trên một cổng web. Bản đồ tương tác Windy cung cấp cho chúng ta chính xác điều này và nhiều hơn nữa.

Windy cung cấp thông tin chính xác về tốc độ gió, mật độ mây, nhiệt độ, lượng mưa, lượng tuyết rơi và sóng. Và cũng có những lựa chọn để xem nhiệt độ, dòng chảy khí qyển, tầng ozon, bụi, độ ẩm, điểm sương và nồng độ carbon monoxide trong không khí.

Thông tin về thời tiết chính xác cao, thời gian thực là không thể thiếu đối với những người hay di chuyển, ngành nông nghiệp, các công ty logistics, lái xe tải, tàu đánh cá và hầu hết những người mà nghề nghiệp hoặc hoạt động giải trí bị ảnh hưởng bởi vận tốc gió, thủy triều hoặc bất kỳ sự biến động đột ngột nào trong thời tiết. Nó cũng rất quan trọng trong việc đối phó với thiên tai trong các thảm họa lốc xoáy, bão hoặc thiên tai khác.

Windy Interactive Map: Dự báo chính xác và hiển thị hình ảnh động

Các bản đồ tương tác của Windy cung cấp một dự báo đầy đủ cho một tuần tại thời điểm hiện tại. Dữ liệu của Windy bao gồm các thông số đo được từ các nguồn khác nhau cùng với dữ liệu nội suy. Các mô hình sử dụng gió GSF với lưới phân giải 22km, ECMWF với độ phân giải 9km và rất nhiều mô hình địa phương với độ phân giải thậm chí còn 3 km. Tại các vị trí không có dữ liêu, một thuật toán nội suy được áp dụng. Nếu chúng ta nhấp vào bản đồ trên Windy và di chuyển con trỏ xung quanh bản đồ, số chúng tôi thấy được dữ liệu nội suy cho bất kỳ nơi nào trên thế giới.

Chúng ta chỉ cần nhập tên của bất kỳ vị trí nào trên thế giới là sẽ nhận được bản cập nhật thời tiết toàn diện và đáng tin cậy. Nó cũng cho thấy vị trí của tất cả các sân bay và điểm dù lượn trên thế giới. Trong bản đồ, xung quanh Đông Nam Á, các hạt có thể được nhìn thấy tạo ra một xoáy nước.

Bản đồ nhiệt độ

Dữ liệu sử dụng bởi Windy

Các mô hình dự báo thời tiết

Hầu hết các trang web dự báo thời tiết chỉ sử dụng mô hình GFS vì nó miễn phí thay vì ECMWF được coi là tiên tiến hơn và chính xác hơn mô hình GFS. Tuy nhiên, Windy.com sử dụng cả hai và người dùng có quyền tự do chuyển đổi và chọn một trong số họ muốn sử dụng.

Dữ liệu thu thập được từ hàng nghìn trạm thời tiết trên thế giới và sau đó xử lý bằng siêu máy tính cho chúng ta kết quả cuối cùng được gọi là mô hình dự báo. Ngoài ECMF và GFS, Windy cũng sử dụng các mô hình dữ liệu khác và cho phép người dùng lựa chọn bất cứ mô hình nào. Đây là 4 mô hình địa phương được Windy sử dụng:

  • NEMS, được phát triển bởi Meteoblue.com có độ phân giải ~ 4 km, và chỉ có ở Châu Âu;
  • NAM CONUS có độ phân giải là ~ 5 km và chỉ có ở lục địa Mỹ;
  • NAM Alaska có độ phân giải là ~ 6 km và chỉ giới hạn ở Alaska;
  • và NAM Hawaii, đặc trưng của Hawaii và có độ phân giải là ~ 3 km.

Hai mô hình toàn cầu rõ ràng vượt trội so với các mô hình địa phương về độ phân giải và phạm vi.

ECMWF (Trung tâm châu Âu dự báo thời tiết trung hạn) được biết đến ở Mỹ với tư cách là “mô hình châu Âu” có độ phân giải là 0,1 ° ở vĩ độ (~ 9km). Sản lượng dự báo của nó được sản xuất mỗi ba giờ trong 144 giờ đầu tiên, từ 6 giờ mỗi ngày đến ngày thứ 10.

GFS (Hệ thống Dự báo Toàn cầu), được điều hành bởi Dịch vụ Thời tiết Quốc gia Hoa Kỳ (NWS), có độ phân giải ~ 13 km. Sản lượng dự báo của nó được sản xuất mỗi giờ trong 120 giờ đầu tiên, ba giờ cho đến ngày 10.

Các mô hình dự báo khác nhau có thời gian khác nhau để cập nhật dữ liệu. Ví dụ, ECMWF cập nhật dữ liệu của nó trong khoảng 12 giờ, trong khi GFS và NAM Alaska cập nhật trong 6 giờ và NESIDIS trong 5 ngày.

Nguồn: GeospatialWorld

Amazon đang chuẩn bị cung cấp một dịch vụ mật cho IoT

Là một trong những thông báo mới nhất trong một ngày đầy những công cụ và tính năng mới, Amazon đã xem xét cung cấp một dịch vụ bảo mật mới cho IoT.

Được gọi là IOT Device Defender, dịch vụ mới sẽ giám sát các hoạt động của các thiết bị để tìm sự bất thường trong hoạt động của thiết bị và hỗ trợ các tác vụ phòng chống hay tắt hẳn mà khách hàng muốn đặt ra.

Dịch vụ cũng sẽ cung cấp khả năng phát hiện và cảnh báo thời gian thực dựa trên các biến thể từ hành vi thiết bị bình thường được xác định bởi các quy tắc được cung cấp bởi khách hàng.

Cuối cùng, dịch vụ mới sẽ cung cấp các công cụ như thông tin theo ngữ cảnh để khách hàng có thể điều tra và giảm nhẹ thiệt hại do vi phạm.

Thông tin như thông số thiết bị và số liệu thống kê có sẵn thông qua các cảnh báo tùy chỉnh và người dùng có thể khởi động lại thiết bị từ xa, thu hồi quyền, reset nó hoặc cập nhật các bản sửa lỗi bảo mật thông qua dịch vụ Amazon sắp tới.

Nguồn: Amazon is previewing an IOT security service

SkyX thực hiện chuyến bay giám sát hiện trường tầm xa bằng máy bay không người lái

Máy bay không người lái SkyOne

Tại Canada: SkyX Systems, một công ty chuyên sử dụng UAV để giám sát hiện trường tầm xa và cung cấp dữ liệu giám sát hiện trường, đã hoàn thành một chuyến bay 100 km (khoảng 62 dặm) cho thị trường dầu mỏ và khí đốt.

Tại Mexico, máy bay SkyOne đã thực hiện nhiệm vụ bay tự trị hơn 100 km trên đường ống dẫn khí đốt. Chuyến bay được lập trình và theo dõi từ xa với mục đích kiểm soát nhiệm vụ bay bởi trung tâm Greater Toronto Area SkyCenter cùng với đội ngũ hỗ trợ của các kỹ sư trên mặt đất ở Mexico.

Sử dụng hình ảnh có độ phân giải cao, chuyến bay lâu nhất trong nhiều lần bay đã xác định được hơn 200 vùngcó khả năng bất thường dọc theo đường ống dẫn từ xa – bao gồm các tòa nhà trái phép, các khe nứt có thể gây ra bởi hoạt động địa chấn.

Người sáng lập và Giám đốc điều hành của SkyX, Didi Horn, cho biết: “Nhiệm vụ bay này đã mang tính đột phá. “Chúng tôi đã chứng minh giải pháp của chúng tôi hoạt động tốt trong một môi trường khắc nghiệt. Đối tác Mexico của chúng tôi đã rất bất ngờ không chỉ bởi kết quả của chúng tôi mà còn bởi tốc độ và độ chính xác mà chúng tôi đã cung cấp cho họ. ”

Theo công ty, chuyến bay thu thập dữ liệu này chỉ thực hiện trong hơn một giờ trong khi các phương pháp truyền thống phải mất đến hơn một tuần.

Hệ thống SkyX bao gồm một chiếc máy bay không người lái có thể cất cánh giống như trực thăng, phòng điều khiển SkyCenter, cho phép giám sát các nhiệm vụ bay theo thời gian thực và an toàn từ các địa điểm từ xa. SkyBoxes là sản phẩm độc quyền của công ty, cho phép UAV nạp nhiên liệu và tiếp tục các nhiệm vụ tầm xa mà không cần phải trở về nhà.

Nguồn: GeoSpatial World

FIMO tổ chức Hội thảo ứng dụng máy bay không người lái trong việc giám sát thảm họa, thiên tai

Trong 4 ngày vừa qua, từ ngày 28/11/2017 – 1/12/2017, Trung tâm tích hợp liên ngành giám sát hiện trường – Đại Học Công Nghệ – ĐHQGHN đã tổ chức thành công hội thảo ứng dụng máy bay không người lái trong việc giám sát thảm họa và thiên tai. Hội thảo diễn ra với sự góp mặt của các nhà nghiên cứu đền từ các nước: Nhật Bản, Thái Lan, Phillipines và Indonesia.

Đến từ phía Nhật Bản là các nhà nghiên cứu đến từ Đại Học Chubu (Chubu University), Viện Khoa Học và Công nghê Nhật Bản (JST). Viện nghiên cứu Quốc gia về khoa học và nghiên cứu Trái Đất (NIED).

Đến từ phía Thái Lan là các nhà nghiên cứu đền từ Trung tâm Công nghệ và Máy tính Quốc gia Thái Lan.

Đến từ phía Phillipine là các nhà nghiên cứu đến từ Viện nghiên cứu núi lửa và địa chấn học Philippine và Sở Khoa học, Công nghệ Philippine.

Từ phía Việt Nam có Trung tâm tích hợp liên ngành giám sát hiện trường, Cục bản đồ Quân đội, Tổng cục 5 Bộ Công An, Bộ Khoa Học Công Nghệ.

Trong hai ngày đầu (28 – 29/11) diễn ra Hội thảo, Tiến sĩ Hiroshi Inoue đến từ NIED giới thiệu ứng dụng của máy bay không người lái và cách hoạt động, lắp ráp máy bay không lái (wing wing 84).

Dr. Hiroshi Inoue giới thiệu về máy bay không người lái

Dr. Hiroshi Inoue hướng dẫn lắp đặt máy bay không người lái

Thực hành lắp đặt máy bay không người lái

Trong ngày thứ ba diễn ra hội thảo, các bên tham gia báo cáo về tình hình của năm 2017 và hướng đi, kế hoạch cho năm 2018

Tiến sĩ Lê thị Ngọc Lâm – Bộ Khoa học và Công nghệ phát biểu khai mạc Hội thảo

Tiếp đó, đại diện các nước tham gia hội thảo sẽ trình bày về công việc và kế hoạch cho năm tới trong buổi Hội thảo ngày 30/11.

Một số hình ảnh trình bày và báo cáo trong buổi Hội thảo

 

Sau đó, FIMO tổ chức liên hoan sau khi kết thúc Hội thảo ngày 29/11 tại nhà hàng Góc Hà Nội.

Tiệc liên hoan tối ngày 29/11 

Vào ngày 30/11, mọi người di chuyển đến khu vực Nhà Khách ĐHQGHN để tiến hành buổi thực hành bay thử do các chuyên gia đến từ Nhật Bản hướng dẫn.

Một số hình ảnh trong buổi hướng dẫn bay ngày 1/12

Trưa ngày 30/11, sau khi kết thúc buổi hướng dẫn, đào tạo bay, FIMO tổ chức buổi tiệc liên hoan kết thúc Hội thảo và trao chứng chỉ cho các thành viên đã tham dự khóa đào tạo máy bay không người lái.

Một số hình ảnh trong buổi liên hoan và trao chứng chỉ.

Chúc mừng 5 học viên cao học tại FIMO đã bảo vệ luận văn Thạc sĩ thành công

Vào ngày 01/12/2017 và 02/12/2017, tại trường Đại học Công Nghệ, Đại học Quốc gia Hà Nội đã diễn ra lễ bảo vệ luận văn Thạc sĩ. Năm nay, trung tâm FIMO đã có 5 Học viên cao học bảo vệ Thạc sĩ trong đợt tháng 12/2017.

Chúc mừng các tân Thạc sĩ FIMO đã bảo vệ luận văn tốt nghiệp với kết quả cao. Đặc biệt, học viên Mẫn Đức Chức đã đạt kết quả cao trong đợt bảo vệ với tổng điểm bảo vệ là 9.84.

Danh sách học viên cao học tại FIMO và đề tài bảo vệ năm nay:

STT Họ Tên Ngành Tên đề tài Cán bộ hướng dẫn
1 Mẫn Đức Chức Khoa học máy tính Research on Land-Cover classification methodologies for optical satellite images TS. Nguyễn Thị Nhật Thanh
2 Bùi Thị Mai Kỹ thuật phần mềm Nghiên cứu và đánh giá độ dày quang học sol khí từ ảnh vệ tinh dựa trên các trạm quan trắc TS. Bùi Quang Hưng
TS. Nguyễn Thị Nhật Thanh
3 Đỗ Thị Phương Quản lý hệ thống thông tin Nghiên cứu và đánh giá các phương pháp nội suy ảnh viễn thám cho bài toán phân loại lớp phủ đô thị tại Việt Nam TS Bùi Quang Hưng
4 Nguyễn Hoàng Anh Hệ thống thông tin Nghiên cứu và phát triển phương pháp phân lớp ở Đồng bằng sông Hồng sử dụng ảnh vệ tinh Lansat8 TS. Bùi Quang Hưng
5 Vũ Thị Hòa Hệ thống thông tin Nghiên cứu và đánh giá các phương pháp tổng hợp dữ liệu cho bài toán phân loại lớp phủ đô thị tại Việt Nam TS. Nguyễn Văn Hoàn
TS. Bùi Quang Hưng

Một số hình ảnh trong lễ bảo vệ luận văn Thạc sĩ:

Học viên cao học Mẫn Đức Chức

Học viên Mẫn Đức Chức

 

Học viên cao học Bùi Thị Mai

Học viên Bùi Thị Mai

Học viên cao học Đỗ Thị Phương

Học viên Đỗ Thị Phương

Học viên cao học Nguyễn Hoàng Anh

Học viên Nguyễn Hoàng Anh

Học viên cao học Vũ Thị Hòa

Học viên Vũ Thị Hòa

Chúc các tân Thạc sĩ đi xa và thành công hơn nữa trên con đường sự nghiệp và nghiên cứu của mình.

 

FIMO tham dự và trình bày tại hội thảo Ứng dụng GIS toàn quốc 2017

Ngày 02/12/2017, tại Trường Đại học Quy Nhơn đã tổ chức thành công Hội thảo khoa học Ứng dụng GIS toàn quốc 2017 với chủ đề “An ninh nguồn nước và Biến đổi khí hậu”. Hội thảo được tổ chức nhằm mục đích trao đổi về năng lực và những kết quả nghiên cứu ứng dụng GIS, viễn thám trong quản lí tài nguyên môi trường, giáo dục và biển đảo, phòng chống thiên tai và biến đổi khí hậu tại Việt Nam; đồng thời là diễn đàn thảo luận định hướng hợp tác nghiên cứu và phát triển ứng dụng GIS, viễn thám trong thời gian tới. Hội thảo có sự góp mặt của gần 200 đại biểu tham dự đến từ các trường Đại học; các Viện và Trung tâm nghiên cứu; các Sở, Ban, Ngành thuộc các Tỉnh, Thành phố và các công ty và doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực cung cấp các phần mềm và trang thiết bị về GIS và viễn thám ứng dụng.

Nội dung của các vấn đề đưa ra trong Hội thảo rất phong phú và đa dạng, tập trung các chủ đề chính sau đây:
+ Quản lý bền vững nguồn nước và phát triển các ngành kinh tế;
+ Biến đổi khí hậu và những tác động của biến đổi khí hậu đến sản xuất, đời sống;
+ Đánh giá, quản lý tài nguyên, môi trường trong bối cảnh biến đổi khí hậu toàn cầu; GIS trong giáo dục và phát triển cộng đồng; 
+ Viễn thám, WEBGIS, công nghệ GNSS, cơ sở dữ liệu, trắc địa,… 

Trong chủ đề “Viễn thám, WEBGIS, công nghệ GNSS, cơ sở dữ liệu, trắc địa”, FIMO vinh dự và vui mừng được đóng góp 2 bài nghiên cứu và trình bày tại hội thảo:

  1. Lưu Quang Thắng, Phan Anh, Lưu Việt Hưng, Nguyễn Thị Nhật Thanh, Nguyễn Thanh Thủy, Bùi Quang Hưng (2017), SỬ DỤNG CÔNG NGHỆ HADOOP VÀ SPARK ĐỂ LƯU TRỮ VÀ XỬ LÝ PHÂN TÁN ẢNH VỆ TINH VNREDSAT-1. 
  2. Lưu Quang Thắng, Phan Anh, Nguyễn Thị Nhật Thanh, Bùi Quang Hưng (2017), SEAP: NỀN TẢNG MỚI CHO VIỆC KHAI THÁC VÀ PHÂN TÍCH DỮ LIỆU KHÔNG GIAN LỚN.

Trong khuôn khổ của Hội thảo khoa học Ứng dụng GIS toàn quốc 2017, ban tổ chức đã tổ chức thành công 2 khóa đào tạo ngắn hạn về ArcGIS Pro và Google Earth Engine. FIMO cũng đã tham dự khóa học Google Earth Engine với nhiều thông tin và kiến thức bổ ích.

Một số hình ảnh của hội thảo:

Nguồn: FIMO, gisconference

Vương Quốc Anh phóng thành công vệ tinh thời tiết JPSS1

Vệ tinh JPSS1 đã được phóng vào quỹ đạo ngày 18/11 vừa qua tại Căn cứ không quân Vandenberg, California. Vệ tinh này sẽ cung cấp các dữ liệu quan sát được gửi về gần như ngay lập tức, những dữ liệu này sẽ được chia sẻ với các đối tác quốc gia và quốc tế của Hoa Kỳ, bao gồm cơ quan Met Office của Anh.

Theo đó, vệ tinh này không chỉ thu thập dữ liệu thời tiết hàng ngày mà còn theo dõi một loạt các hiện tượng khác như cháy rừng, tuyết phủ, nhiệt độ bề mặt biển và phát hiện aerosol, rất quan trọng trong việc giám sát chất lượng không khí.

Vệ tinh JPSS1 cũng cho phép đo bức xạ từ Trái đất và bầu khí quyển, cũng như cung cấp các thông tin quan trọng khác cho các mô hình dự báo thời tiết, chẳng hạn như các chương trình của Met Office (Anh). Hiện nay, phần lớn trong số 215 tỷ báo cáo quan sát hàng ngày cơ quan Met Office nhận được là từ các vệ tinh này.

Dữ liệu vệ tinh là yếu tố chính giúp cải thiện độ chính xác trong dự báo thời tiết những năm gần đây, theo đánh giá của các chuyên gia dự báo thời tiết.

Tiến sĩ Simon Keogh, trưởng nhóm dữ liệu, sản phẩm và hệ thống vệ tinh của Met Office cho biết: “Giá trị có thể nhận được từ các vệ tinh khí tượng là vô cùng lớn. Met Office được xây dựng với mục tiêu quan trắc Trái Đất. Nó được kì vọng sẽ đem lại nguồn lợi ích kinh tế-xã hội đến hơn 30 tỷ bảng Anh trong thập kỉ tới, đồng thời bảo đảm an toàn cho con người, tài sản, doanh nghiệp và các cơ sở hạ tầng quan trọng của quốc gia.

Đóng góp đáng giá của vệ tinh JPSS1 cho Hệ thống quan sát Toàn cầu sẽ bổ sung thêm vào dữ liệu cũng cấp cho Met Office thông qua việc hợp tác với Tổ chức Khai thác các vệ tinh khí tượng Châu Âu (EUMETSAT).

Ngoài việc vận hành các vệ tinh, EUMETSAT còn điều hành một trạm tiếp nhận vệ tinh ở Svalbard, thuộc Bắc Na-uy, một phần quan trọng nhằm tập hợp lượng lớn dữ liệu từ vệ tinh cho các tổ chức sử dụng loại dữ liệu này. Tại vĩ độ này, trạm sẽ nhận được lượng thông tin khổng lồ từ vệ tinh JPSS1, lên tới 14 lần một ngày.

Nguồn: Geospatial World

Việc chế tạo vệ tinh Landsat 9 đang diễn ra theo đúng lịch trình dự kiến

Orbital ATK thông báo việc chế tạo vệ tinh Landsat 9 của NASA/USGS đang tiến triển đúng tiến độ, chưa đầy một năm sau khi công ty giành được hợp đồng vào tháng 10 năm 2016. Landsat 9, một vệ tinh lập bản đồ mặt đất sẽ thu thập các hình ảnh và dữ liệu dựa trên không gian làm nguồn tài nguyên có giá trị cho các nhà nghiên cứu trong các lĩnh vực bao gồm nông nghiệp, lập bản đồ sử dụng đất, ứng phó khẩn cấp và cứu trợ thiên tai. Orbital ATK đang thiết kế và sản xuất vệ tinh, tích hợp hai thiết bị do chính phủ cung cấp và hỗ trợ phóng, hoạt động theo quỹ đạo sớm và kiểm tra quỹ đạo của đài quan sát.

Các đại diện từ NASA và Orbital ATK gần đây đã hoàn thành thành công một Đánh giá thiết kế sơ bộ đã chứng minh rằng tàu vũ trụ đáp ứng tất cả các yêu cầu của hệ thống và lịch trình. Orbital ATK sẽ sản xuất và thử nghiệm Landsat 9 tại cơ sở của Gilbert, bang Arizona. Vệ tinh hiện đang có kế hoạch ra mắt vào cuối năm 2020, sau đó nó sẽ được vận hành bởi USGS.

Theo USGS, Landsat 9 sẽ mở rộng độ dài của chương trình Landsat tổng thể đến nửa thế kỷ, cung cấp bản ghi liên tục dài nhất của bề mặt trái đất như nhìn thấy từ không gian. Orbital ATK đã xây dựng ba vệ tinh Landsat khác, bao gồm cả Landsat 8, được đưa ra vào năm 2013. Công ty cũng chịu trách nhiệm cho vệ tinh Landsat 4 và Landsat 5 ra mắt vào năm 1982 và 1984.

Landsat 9 dựa trên nền tảng của vệ tinh LEOStar 3 Orbital ATK đã được chứng minh được sử dụng thành công trên Landsat 8. Các vệ tinh ICESat 2 và JPSS 2 cũng dựa trên nền tảng  LEOStar-3 và hiện đang được phát triển cho NASA tại cơ sở Gilbert của Orbital ATK.

ESA trở thành đối tác của Rolls-Royce trong phát triển tàu tự hành

Autodocking System

Autodocking System

Pháp: Tổng giám đốc ESA Jan Wörner đã ký một bản hợp tác với Rolls-Royce cùng nhau nghiên cứu công nghệ vũ trụ ứng dụng để phát triển các tàu độc lập và điều khiển từ xa.

Các đối tác sẽ tập trung chuyên môn để phân tích và thực hiện các dịch vụ hỗ trợ cho di chuyển tự hành và điều khiển từ xa, làm giảm lỗi của con người và cho phép các thủy thủ đoàn tập trung vào các nhiệm vụ quan trọng hơn.

Kế hoạch này nhằm nghiên cứu ứng dụng các tài nguyên không gian khác nhau cho vận tải tự hành, như vị trí dựa trên vệ tinh, nhận thức tình huống tốt hơn bằng dữ liệu quan sát Trái đất và dịch vụ Satcom để cải thiện kết nối trên tàu.

Hợp tác với Bộ phận Tình báo Hàng hải của Rolls-Royce nhằm phát triển và nhận các giải pháp tích hợp trên đất liền và vệ tinh mà ESA đã làm việc trong một thời gian theo sáng kiến ​​Satellite for 5G (S45G). S45G nhằm mục tiêu phát triển và chứng minh các dịch vụ 5G dựa trên vệ tinh và trên mặt đất, trên nhiều thị trường theo chiều dọc và các trường hợp sử dụng khác nhau.

Thế hệ tiếp theo của các dịch vụ viễn thông 5G sẽ dựa vào sự hội nhập giữa các mạng, thúc đẩy sự hội tụ của các dịch vụ cố định và di động, bao gồm các dịch vụ của Satcom. ESA đang hỗ trợ cho sự phát triển của dây chuyền công nghệ và chuỗi cung ứng cần thiết để kết nối các dịch vụ mặt đất và không gian lại với nhay, với trọng tâm là ngành giao thông (hàng hải, hàng không và mặt đất) và trên các thị trường theo chiều dọc khác như an ninh công cộng và phương tiện truyền thông.

Các dịch vụ không gian và mặt đất thống nhất cho phép vận hành tàu thương mại tự do thương mại cũng như thúc đẩy đổi mới các tàu biển thương mại, hậu cần hàng hóa và các cảng biển thông minh trong tương lai.

Hai bên đã đồng ý hợp tác để kiểm tra, xác nhận và đổi mới công nghệ kết nối và ứng dụng của Satcom giữa tàu và bờ, cũng như hỗ trợ việc thử nghiệm và mô hình hóa các phần mềm quan trọng về an toàn, việc này sẽ làm cho các tàu tự hành trở nên sớm khả thi.

Thiết bị dẫn đường và thiết bị viễn thông tương lai của Rolls-Royce sẽ có thể được thử nghiệm tại trung tâm kỹ thuật của ESA ở Hà Lan, tận dụng các cơ sở vật chất của trung tâm.

Công nghệ không gian 4.0 và vệ tinh ESA 5G cho phép, hỗ trợ và thúc đẩy phát triển, thử nghiệm các sản phẩm và ứng dụng trong các lĩnh vực đa dạng của ngành hàng hải. Hợp tác giữa ESA và Rolls-Royce sẽ cho phép các vệ tinh phục vụ cho tình báo tàu biển, vận chuyển, hậu cần hàng hóa, an toàn hàng hải, chăm sóc sức khoẻ, hành khách và thông tin liên lạc với phi hành đoàn.

 

Nguồn: GeoSpatialWorld

Thành phố của bạn có bị ảnh hưởng bởi việc mực nước biển dâng cao?

Ngày nay, việc các sông băng tan chảy do nhiệt độ tăng không phải là một hiện tượng mới. Các sông băng tan chảy được biết là ảnh hưởng đến mực nước biển, làm cho chúng tăng, nhưng điều này sẽ ảnh hưởng đến cuộc sống ở các thành phố như thế nào? Có thể không trực tiếp, nhưng khi mực nước biển dâng cao ảnh hưởng đến bờ biển, các thành phố sẽ phải đối mặt với tình trạng căng thẳng theo cách này hay cách khác.

Tất cả chúng ta đều biết rằng các sông băng ở Greenland đang tan chảy với tốc độ ngày càng tăng nhanh, nhưng bạn có biết điều này cũng sẽ ảnh hưởng đến các thành phố New York và London? Mặc dù Greenland và Nam Cực nằm cách xa các thành phố này, nhưng các sông băng tan ở cả hai khu vực dự kiến ​​sẽ làm tăng mực nước biển đủ để thay đổi nhiều bờ biển trên thế giới.

Ví dụ, New York có khả năng bị ảnh hưởng bởi sự tan chảy của ba sông băng lớn ở phía đông bắc và tây bắc của Greenland: Petermann, Zachariae và Jakobshavn. London đang phải đối mặt với nguy hiểm từ phía tây bắc của dải băng Greenland, và đặc biệt, Sydney cần phải lo sợ những vùng băng Nam Cực cách xa Australia hơn những nơi gần nó.

Hình ảnh dưới đây chỉ ra những khu vực nào của thành phố New York có mối đe dọa tối đa từ các sông băng tan chảy của Greenland. Những phần màu đỏ là những màu đỏ mặt với nguy cơ tối đa.

Các khu vực ở Newyork chịu đe dọa bởi việc sông băng ở Greenland tan chảy

Chỉ nhận thức được một thảm hoạ sắp xảy ra chắc chắn là không đủ; các bộ não thiên tài của thế giới phải cùng nhau tìm ra một giải pháp có thể giảm thiểu được những rủi ro và đây là những gì các nhà khoa học của NASA đã đóng góp. Họ đã tạo ra một công cụ tương tác cho phép người dùng lựa chọn từ 293 thành phố ven biển và xem những khu vực này có thể bị ảnh hưởng như thế nào nếu những khối băng đặc biệt tan chảy vào đại dương.

Trong công cụ này, một khi người dùng nhấp vào “Let’s go” và chọn thành phố mà mình muốn biết, một bản đồ sẽ hiển thị sự đóng góp của các vùng băng giá đến mức nước biển trong thành phố. Màu sắc có ý nghĩa như sau: màu đỏ: sự đóng góp mạnh mẽ vào mực nước biển dâng trong thành phố, xanh dương: sự đóng góp vào mực nước biển giảm, màu xanh lá cây: không có sự đóng góp. Nó cũng hiển thị các xu hướng cụ thể cho thành phố như mực nước biển từ băng, từ các lưu vực cụ thể, và tổng số.

Hình ảnh dưới đây thu được từ công cụ tương tác cho chúng ta biết London sẽ bị ảnh hưởng như thế nào do mực nước biển dâng cao. Bạn cũng có thể biết tình hình của thành phố bằng cách nhấp vào đây.

Mực nước biển dâng cao có thể gây ra lũ lụt gây ra và cơn thịnh nộ do lũ lụt gây ra không thể tưởng tượng nổi. Sẽ không thành công nếu chiến đấu với thiên nhiên bởi vì nó khó có thể vượt qua được, nhưng chúng tôi chắc chắn sẽ chuẩn bị cho mình tốt hơn.

Công cụ tương tác này của NASA chắc chắn là một bước tiến tuyệt vời hướng tới một thế giới an toàn hơn. Các nhà nghiên cứu hy vọng rằng các nhà quy hoạch vùng biển sẽ sử dụng công cụ mới được phát triển của họ để thông báo quyết định về cách các thành phố thích ứng với biến đổi khí hậu.

Nhà khoa học hàng đầu của NASA Erik Ivins nói với BBC: “Khi các thành phố và các quốc gia cố gắng xây dựng kế hoạch giảm nhẹ ngập lụt, họ phải nghĩ tới 100 năm nữa và họ muốn đánh giá rủi ro giống như cách mà các công ty bảo hiểm làm”.

Các bước nhỏ đang được thực hiện, nhưng chúng ta cần chuẩn bị nhiều ở mức độ lớn hơn để chống lại các nguy cơ thiên tai sắp xảy ra mà chúng ta đang nhìn chằm chằm vào khuôn mặt của chúng ta. Để bắt đầu, tại sao không trở nên nhạy cảm hơn đối với các vấn đề khí hậu khó khăn?

Nguồn: GeoSpatialWorld